Người Nhật chỉ mặt điểm tên loạt vấn đề của nông nghiệp Việt Nam
Các doanh nghiệp Nhật Bản phải trả tiền phí lên tới 250 USD, thay vì chỉ trả 8 USD như quy định đối với thủ tục khai báo và đăng ký các sản phẩm thực phẩm chế biến liên quan đến nhập khẩu.
“Việc khai báo và đăng ký các sản phẩm thực phẩm chế biến liên quan đến nhập khẩu, lệ phí là 8 USD. Nhưng trên thực tế, nếu chỉ trả 8 USD thì phải mất 1 năm mới có được giấy phép”, ông Yasuzumi Hirotaka – Trưởng đại diện của Tổ chức thúc đẩy ngoại thương Nhật Bản (JETRO) tại TPHCM, cho biết tại Diễn đàn đối thoại doanh nghiệp ngành nông nghiệp Việt Nam – Nhật Bản chiều 12/8 cho biết.
“Nếu muốn có được giấy phép trong 3 tuần, phải mất từ 180 – 250 USD”.
Ông Yasuzumi cho biết, trong một cuộc trao đổi giữa doanh nghiệp Nhật Bản và cơ quan Nhà nước Việt Nam, lãnh đạo cơ quan hành chính phía Việt Nam khẳng định không có chuyện tính phí cao như vậy.
“Thời gian theo luật định khi hồ sơ đầy đủ là 15 ngày, mức phí theo luật quy định chỉ có 8 USD, không thể thu hơn”, trưởng đại diện JETRO tại TPHCM thuật lại lời một lãnh đạo cơ quan Nhà nước phía Việt Nam.
Trao đổi bên lề hội thảo ông Yasuzumi cho biết, nếu chỉ trả 8 USD theo quy định, thì doanh nghiệp “cứ đợi đấy”. “Có rất nhiều quy trình thủ tục, mà mỗi quy trình lại tính thêm phí, buộc doanh nghiệp phải trả phí thêm nữa, thêm nữa”, ông Yasuzumi cho biết.
“Doanh nghiệp Nhật Bản mong có mức phí và thời gian xử lý khác, mong muốn Việt Nam áp mức phí và thời gian xử lý này theo đúng luật... Rõ ràng, có độ vênh giữa quy định và thực tế, có sự khác biệt giữa việc vận hành, thực thi chính sách với quy định về mặt luật pháp của Chính phủ”.
“Chạy theo lợi nhuận trước mắt, không thể duy trì hoạt động sản xuất lâu dài”
Tại hội thảo, đại diện JETRO cũng nêu ra một loạt vấn đề của nông nghiệp Việt Nam. Cụ thể:
- Kinh doanh quy mô nhỏ, bình quân 0,62 ha/hộ dân với năng suất, hiệu quả thấp.
- Giá cả không theo chất lượng, gây nhầm lẫn rằng cứ sản xuất nhiều thì thu nhập cao. Điều này dẫn đến việc chú trọng nâng cao sản lượng bằng hóa chất, phân bón quá mức. Do dùng quá nhiều hóa chất nên đất nghèo đi.
“Quý vị nghĩ rằng cứ sản xuất nhiều sẽ có thu nhập cao, nhưng không phải như vậy. Người tiêu dùng còn cần chất lượng cao. Dùng quá nhiều hóa chất dẫn đến việc khách hàng sẽ không mua nữa. Thay vào đó, nông dân nên tìm cách làm sao kích thích đất để có năng suất cao hơn. Còn dùng hóa chất chỉ có thể chạy theo lợi nhuận trước mắt, không thể duy trì hoạt động sản xuất lâu dài”, ông Yasuzumi nói.
- Vấn đề về lưu thông: Thị trường bán buôn ở Việt Nam chưa phát triển. Hiện thị trường nông nghiệp chủ yếu là bán trực tiếp từ nông dân cho người bán lẻ (45%), hoặc trung gian (15%)
Như vậy, chuỗi cung ứng thực phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ bị đứt đoạn. Nông dân chưa thích ứng tích cực với các nhu cầu của người tiêu dùng như: Ý thức về an toàn của người tiêu dùng tăng lên, Sức mua đối với thực phẩm giá trị cao tăng, Thay đổi trong thói quen ăn uống...
Khi kỳ thu hoạch dồn dập, giá sẽ rớt mạnh, nếu trung gian không thu mua thì nông dân phải hủy bỏ nông sản. Thêm vào đó, chi phí thuê người thu hoạch, mua giống, phân bón, thức ăn cao nhưng giá cả đầu ra thấp. Số người bị lỗ lên tới trên 20%.
Ngoài ra, do chuỗi cung ứng lạnh chưa hoàn thiện nên khó lưu thông thực phẩm tươi sống.
- Về vấn đề chính sách:
Với FDI trong nông nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài đã được cấp phép nhưng thủ tục cấp đất còn chưa rõ ràng, còn phiền hà. Trong thực tế, đầu tư vào lĩnh vực này hạn chế (chiếm 1,5% tổng vốn FDI).
Bên cạnh đó, dù có sản phẩm giá trị cao nhưng không có thương hiệu nên dù lượng xuất khẩu lớn nhưng giá trị xuất khẩu thấp. Chính sách nông nghiệp vẫn chưa xử lý các vấn đề như đầu tư nông nghiệp hướng đến nâng cao giá trị, cơ giới hóa, áp dụng kỹ thuật, kết nối nhà sản xuất với người tiêu dùng.