TS Nguyễn Đình Cung: Đi vay để trả nợ nghĩa là không có năng lực để trả nợ!
30/06/2014 20:55 PM
|
Cần hiểu rằng việc đi vay nợ về để trả nợ điều đó đang chứng tỏ khả năng tạo ra vốn để trả nợ là không có.
TS Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương đã nhận định như vậy trước tình trạng Việt Nam phải đi vay nợ để đáo hạn các khoản nợ trước kia. TS Cung cho rằng: "Một cách hiểu khác còn nợ mà phải đi vay thêm nghĩa là anh đang không có đủ năng lực để trả nợ".
PV: Thưa ông tại kỳ họp thứ 7 vừa qua, các vị ĐBQH đã chỉ thẳng tình trạng, vay nợ về để đáo nợ và lo ngại, điều này sẽ khiến vấn đề nợ công ngày càng nặng nề và khó giải quyết. Theo ông, vấn đề đi vay về đề trả nợ có phải là một vấn đề mới không và vì sao?
TS Nguyễn Đình Cung: Chuyện đi vay về trả nợ vừa được Quốc hội bàn thảo và Bộ trưởng Bộ Tài chính từng giải trình việc này không có vấn đề gì, không làm phát sinh thêm nợ mới. Cá nhân tôi thì không đồng ý với quan điểm này.
Cần hiểu rằng việc đi vay về để trả nợ điều đó đang chứng tỏ khả năng tạo ra vốn để trả nợ là không có. Hay nói cách khác phải đi vay thêm nghĩa là anh đang không có đủ năng lực để trả nợ.
Tình trạng như thế không thể nói là bình thường được. Chỉ cần hiểu đơn giản theo mô hình của một gia đình, phải đi vay nợ nhưng đến kỳ hạn trả lại không tích lũy được tiền để trả nợ, như vậy là khả năng trả nợ kém đi. Trong trường hợp này phải đi vay về để đảo nợ.
Đáng lẽ ra trong hoàn cảnh khó khăn về nguồn vốn, phải đi vay rồi thì nguồn vốn đó phải dùng để tạo ra năng lực để trả nợ. Đằng này vay về không phải để đầu tư, cũng không tạo ra nguồn lực mà là vay nợ về trả nợ có nghĩa là yêu cầu về trả nợ ngày càng tăng lên. Điều này kéo theo khả năng trả nợ tiếp tục giảm đi.
Tuy nhiên trong hoàn cảnh hiện nay thì buộc phải áp dụng biện pháp trước đi vay về để đảo nợ trong giai đoạn ngắn hạn.
PV: Đúng là nguồn vốn vay đã không được đầu tư để sinh lời, trong khi đầu tư công tràn lan lãng phí đã được nói đến nhiều lần; công trình vay ODA giá cao và đội vốn gấp đôi đều đã được ghi nhận, nợ của các tập đoàn nhà nước mà Chính phủ bảo lãnh ở mức rất cao… Với tình trạng hiện tại, liệu Việt Nam còn kịp nhìn lại và điều chỉnh việc sử dụng các nguồn vốn vay? Muốn như vậy thì phải làm gì? Tình trạng hiện nay nếu không được giải quyết sẽ dẫn đến hệ lụy gì thưa ông?
TS Nguyễn Đình Cung: Thực ra vấn đề này hiện nay chúng ta đều đã biết và nhận ra. So với trước đây thì nay chúng ta đang hy vọng nhiều vào Luật đầu tư công như một công cụ để quản lý đầu tư công.
Rõ ràng việc thắt chặt ngân sách đối với đầu tư công phải áp dụng một cơ chế, kỷ cương kỷ luật tài chính hết sức chặt chẽ đối với đơn vị đầu tư nói chung và từng dự án nói riêng.
Muốn thắt chặt thì cần phải làm rõ trách nhiệm giải trình của từng cá nhân phụ trách đối với từng dự án và cơ quan quản lý cũng phải rõ ràng, rành mạch. Ví dụ đối với từng dự án không thể có chuyện điều chỉnh dự toán đầu tư một cách tùy ý và tùy tiện như hiện nay.
Có thể phải coi kỷ luật ngân sách đối với từng dự toán như một đạo luật, trong đó chính cơ quan đầu tư phải xác định được rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện. Theo đó rủi ro nếu xảy ra sẽ có tác động đối với dự toán như thế nào và chỉ khi xảy ra thì mới được điều chỉnh dự toán. Khi đó mức độ rủi ro ở mức nào thì điều chỉnh dự toán đến mức đó.
Cũng phải nói rằng phải xác định mức trần về rủi ro có thể xảy ra và được điều chỉnh để từ đó thắt chặt ngân sách đối với dự án đầu tư.
Nếu những thứ làm thay đổi dự án, tức là yếu tố khác ngoài rủi ro đã được xác định trước dẫn tới việc làm tăng dự toán thì chủ đầu tư và các bên khác phải chịu trách nhiệm chứ ngân sách sẽ không bỏ thêm một xu.
Nếu không làm được điều này thì một nguy cơ rất lớn sẽ xảy ra là lúc đầu xây dựng dự toán rất thấp để được thông qua. Khi có vốn rồi trong quá trình thực hiện họ cứ tâng lên dần, điều chỉnh vốn lên mà không theo một giới hạn nào. Đáng lẽ một dự án cần 10 tỷ đồng mới thực hiện xong nhưng khi lập chỉ đề ra 5 tỷ rồi điều chỉnh lên không giới hạn.
Do vậy buộc các bên phải tính toán dự toán thật chu đáo và cẩn trọng trước khi phê duyệt. Khi thực hiện thì phải hết sức khắt khe và kỷ luật. Ngay cả ngân sách quốc gia khi Quốc hội đã ban hành rồi thì tất cả các khoản chỉ được chi trong dự toán. Những gì được xem là chi vượt dự toán chỉ có thể duyệt khi xảy ra rủi ro đã được xác định từ khi lập dự toán.
Việc này phải được thực hiện một cách nghiêm túc chứ không phải việc điều chỉnh xảy ra thường xuyên như thời gian vừa qua. Trong khi đó việc tại sao phải điều chỉnh nhiều như thế và ai là người chịu trách nhiệm trong việc điều chỉnh thì không thấy được giải trình.
Chính câu chuyện này khiến cho tình trạng nợ càng nợ thêm như chúng ta đã thấy.
Xem tin gốc
PV: Thưa ông tại kỳ họp thứ 7 vừa qua, các vị ĐBQH đã chỉ thẳng tình trạng, vay nợ về để đáo nợ và lo ngại, điều này sẽ khiến vấn đề nợ công ngày càng nặng nề và khó giải quyết. Theo ông, vấn đề đi vay về đề trả nợ có phải là một vấn đề mới không và vì sao?
TS Nguyễn Đình Cung: Chuyện đi vay về trả nợ vừa được Quốc hội bàn thảo và Bộ trưởng Bộ Tài chính từng giải trình việc này không có vấn đề gì, không làm phát sinh thêm nợ mới. Cá nhân tôi thì không đồng ý với quan điểm này.
Cần hiểu rằng việc đi vay về để trả nợ điều đó đang chứng tỏ khả năng tạo ra vốn để trả nợ là không có. Hay nói cách khác phải đi vay thêm nghĩa là anh đang không có đủ năng lực để trả nợ.
Tình trạng như thế không thể nói là bình thường được. Chỉ cần hiểu đơn giản theo mô hình của một gia đình, phải đi vay nợ nhưng đến kỳ hạn trả lại không tích lũy được tiền để trả nợ, như vậy là khả năng trả nợ kém đi. Trong trường hợp này phải đi vay về để đảo nợ.
Đáng lẽ ra trong hoàn cảnh khó khăn về nguồn vốn, phải đi vay rồi thì nguồn vốn đó phải dùng để tạo ra năng lực để trả nợ. Đằng này vay về không phải để đầu tư, cũng không tạo ra nguồn lực mà là vay nợ về trả nợ có nghĩa là yêu cầu về trả nợ ngày càng tăng lên. Điều này kéo theo khả năng trả nợ tiếp tục giảm đi.
Tuy nhiên trong hoàn cảnh hiện nay thì buộc phải áp dụng biện pháp trước đi vay về để đảo nợ trong giai đoạn ngắn hạn.
PV: Đúng là nguồn vốn vay đã không được đầu tư để sinh lời, trong khi đầu tư công tràn lan lãng phí đã được nói đến nhiều lần; công trình vay ODA giá cao và đội vốn gấp đôi đều đã được ghi nhận, nợ của các tập đoàn nhà nước mà Chính phủ bảo lãnh ở mức rất cao… Với tình trạng hiện tại, liệu Việt Nam còn kịp nhìn lại và điều chỉnh việc sử dụng các nguồn vốn vay? Muốn như vậy thì phải làm gì? Tình trạng hiện nay nếu không được giải quyết sẽ dẫn đến hệ lụy gì thưa ông?
TS Nguyễn Đình Cung: Thực ra vấn đề này hiện nay chúng ta đều đã biết và nhận ra. So với trước đây thì nay chúng ta đang hy vọng nhiều vào Luật đầu tư công như một công cụ để quản lý đầu tư công.
Rõ ràng việc thắt chặt ngân sách đối với đầu tư công phải áp dụng một cơ chế, kỷ cương kỷ luật tài chính hết sức chặt chẽ đối với đơn vị đầu tư nói chung và từng dự án nói riêng.
Muốn thắt chặt thì cần phải làm rõ trách nhiệm giải trình của từng cá nhân phụ trách đối với từng dự án và cơ quan quản lý cũng phải rõ ràng, rành mạch. Ví dụ đối với từng dự án không thể có chuyện điều chỉnh dự toán đầu tư một cách tùy ý và tùy tiện như hiện nay.
Có thể phải coi kỷ luật ngân sách đối với từng dự toán như một đạo luật, trong đó chính cơ quan đầu tư phải xác định được rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện. Theo đó rủi ro nếu xảy ra sẽ có tác động đối với dự toán như thế nào và chỉ khi xảy ra thì mới được điều chỉnh dự toán. Khi đó mức độ rủi ro ở mức nào thì điều chỉnh dự toán đến mức đó.
Cũng phải nói rằng phải xác định mức trần về rủi ro có thể xảy ra và được điều chỉnh để từ đó thắt chặt ngân sách đối với dự án đầu tư.
Nếu những thứ làm thay đổi dự án, tức là yếu tố khác ngoài rủi ro đã được xác định trước dẫn tới việc làm tăng dự toán thì chủ đầu tư và các bên khác phải chịu trách nhiệm chứ ngân sách sẽ không bỏ thêm một xu.
Nếu không làm được điều này thì một nguy cơ rất lớn sẽ xảy ra là lúc đầu xây dựng dự toán rất thấp để được thông qua. Khi có vốn rồi trong quá trình thực hiện họ cứ tâng lên dần, điều chỉnh vốn lên mà không theo một giới hạn nào. Đáng lẽ một dự án cần 10 tỷ đồng mới thực hiện xong nhưng khi lập chỉ đề ra 5 tỷ rồi điều chỉnh lên không giới hạn.
Do vậy buộc các bên phải tính toán dự toán thật chu đáo và cẩn trọng trước khi phê duyệt. Khi thực hiện thì phải hết sức khắt khe và kỷ luật. Ngay cả ngân sách quốc gia khi Quốc hội đã ban hành rồi thì tất cả các khoản chỉ được chi trong dự toán. Những gì được xem là chi vượt dự toán chỉ có thể duyệt khi xảy ra rủi ro đã được xác định từ khi lập dự toán.
Việc này phải được thực hiện một cách nghiêm túc chứ không phải việc điều chỉnh xảy ra thường xuyên như thời gian vừa qua. Trong khi đó việc tại sao phải điều chỉnh nhiều như thế và ai là người chịu trách nhiệm trong việc điều chỉnh thì không thấy được giải trình.
Chính câu chuyện này khiến cho tình trạng nợ càng nợ thêm như chúng ta đã thấy.
Xem tin gốc
Theo Đất Việt
Copy link
Link bài gốc
Lấy link!