Hoạt động gia công đem về cho Việt Nam khoảng 8,6 tỷ USD mỗi năm
Ngày 19/9 vừa qua tại Hà Nội, lần đầu tiên Tổng cục Thống kê công bố số liệu điều tra về tình hình gia công hàng hóa cho nước ngoài.
Theo điều tra, trong năm 2016 cả nước có 1.740 doanh nghiệp thực hiện hoạt động gia công hàng hóa với nước ngoài. Trong đó, có 1.687 doanh nghiệp nhận gia công và có 52 doanh nghiệp Việt gửi nguyên liệu ra nước ngoài thuê gia công. Tổng phí gia công các doanh nghiệp Việt Nam thu được từ hoạt động nhận gia công, lắp ráp hàng hóa cho nước ngoài năm 2016 đạt 8,6 tỷ USD.
Đứng đầu về số ngoại tệ thu được là nhóm hàng dệt may với 4,1 tỷ USD, chiếm 48% tổng phí gia công; giày dép thu về 2,7 tỷ USD, chiếm 32% tổng phí gia công; lắp ráp điện thoại 268 triệu USD, chiếm 3,1%; lắp ráp điện tử máy tính là 63 triệu USD, chiếm 0,7% và gia công hàng hóa khác thu được 1,4 tỷ USD, chiếm 16,2%. Hoạt động gia công hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam đã tạo ra việc làm cho hơn 1 triệu lao động.
Tổng giá trị nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho quá trình gia công, lắp ráp đạt 20,2 tỷ USD, chiếm 11,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước; kim ngạch xuất khẩu sản phẩm sau gia công, lắp ráp đạt 32,4 tỷ USD, chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, các doanh nghiệp FDI chiếm trọng số lớn nhất với giá trị hàng hóa sau gia công đạt 25,6 tỷ USD, chiếm tới 78,9% tổng giá trị hàng hóa sau gia công, cùng với đó, nguyên liệu nhập khẩu cho gia công của các doanh nghiệp FDI là 16,3 tỷ USD, chiếm 80,5% tổng giá trị nguyên liệu nhập khẩu.
Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm cho biết, hoạt động gia công hàng hóa với nguyên liệu đầu vào do đối tác nước ngoài cung cấp và sở hữu nên tỷ lệ giá trị nguyên liệu nhập khẩu về để gia công, lắp ráp so với tổng giá trị hàng hóa sau gia công ở mức khá cao 62,3%. Trong đó, tỷ lệ này cao nhất ở nhóm hàng điện thoại với 78,9%, nhóm hàng điện tử máy tính 76,4%, nhóm hàng dệt may 67,1%, nhóm giày dép 47% và nhóm hàng hóa khác là 74,7%.
"Số liệu cho thấy, với nhóm hàng điện thoại và điện tử máy tính, gần như doanh nghiệp Việt Nam chỉ thu được phí gia công, lắp ráp do nước ngoài trả mà không cung cấp nguyên liệu phụ trợ sản xuất trong nước cho hoạt động gia công đối với 2 nhóm hàng này", Tổng cục Thống kê nhận định.
Tuy nhiên, tỷ lệ này ở nhóm hàng dệt may và giày dép thấp hơn cho thấy ngoài nguyên liệu nhập khẩu từ nước thuê gia công, doanh nghiệp Việt Nam có cung cấp thêm nguyên liệu đầu vào sản xuất trong nước phục vụ cho quá trình gia công. Với nhóm hàng dệt may và giày dép, ngoài khoản thu về phí gia công, doanh nghiệp Việt Nam còn thu được một khoản ngoại tệ từ việc cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ quá trình gia công, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa đối với nhóm hàng dệt may và giày dép.
Các đối tác chính đặt hàng doanh nghiệp Việt Nam gia công, lắp ráp hàng hóa trong năm 2016 gồm: Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Hầu hết sản phẩm sau khi gia công, lắp ráp được xuất khẩu trở lại cho nước đặt gia công hoặc xuất khẩu cho nước khác theo chỉ định của nước đặt gia công. Trị giá hàng hóa sau gia công, lắp ráp bán tại Việt Nam so với tổng giá trị hàng hóa sau gia công thấp với 3,9%, trong đó thấp nhất là điện thoại và dệt may, tỷ lệ được để lại tiêu thụ tại Việt Nam tương ứng là 0,2% và 1%.
Những con số trên cho thấy, kinh tế Việt Nam vẫn chưa thoát "kiếp gia công", giá trị gia tăng thu về thấp.