10% - 15% người Việt thuộc nhóm HENRYs – thu nhập cao nhưng chưa giàu. Họ là ai?
Hấp dẫn hơn cả giới thượng lưu, HENRYs - the High Earners Not Rich Yet - những người có thu nhập cao nhưng chưa giàu đang là tập khách hàng mà nhiều thương hiệu xa xỉ muốn nhắm tới. Theo nghiên cứu của RBNC, khoảng 10% dân số Việt Nam thuộc nhóm này vào năm 2020…
Những HENRYs Việt Nam, họ là ai?
Ông Robert Trần - Giám đốc điều hành Tập đoàn Tư vấn Chiến lược RBNC phụ trách thị trường Bắc Mỹ và Châu Á Thái Bình Dương – cho biết: Thị trường hàng xa xỉ toàn cầu, trong đó có Việt Nam, đang chứng kiến sự trỗi dậy của một nhóm người tiêu dùng mới - HENRYs (the High Earners Not Rich Yet - những người thu nhập cao nhưng chưa giàu).
Ông Robert Trần - Giám đốc điều hành Tập đoàn Tư vấn Chiến lược RBNC phụ trách thị trường Bắc Mỹ và Châu Á Thái Bình Dương. Ảnh: Fanpage CEO - Chìa khóa thành công.
Chia sẻ trên chương trình CEO – Chìa khóa thành công về một nghiên cứu của Tập đoàn RBNC cách đây 3 năm, ông Robert cho biết năm 2020, sẽ có 10% dân số Việt Nam thuộc nhóm HENRYs này.
"Chúng tôi không gọi họ là tầng lớp trung lưu, mà là tầng lớp cận giàu", ông Robert nói.
10 năm nữa, Việt Nam sẽ có rất nhiều bạn trẻ Gen Z trở thành tỷ phú
HENRYs, theo định nghĩa của RBNC, là những cặp vợ chồng có thu nhập khoảng 75.000 - 250.000 USD/năm, tức xê dịch từ gần 2 - 6 tỷ đồng/năm. Mức sàn thu nhập này thấp hơn mức Deloitte đề cập về tầng lớp HENRYs trong báo cáo "Những thế lực kinh doanh hàng xa xỉ toàn cầu 2019. Trong báo cáo này, Deloitte định nghĩa giới HENRYs có thu nhập từ 100.000 – 250.000 USD/năm.
"Đây là nhóm chưa giàu, nhưng muốn có trải nghiệm của người giàu. Ở Việt Nam, số người thuộc nhóm này khoảng 10 triệu người", ông Robert nói thêm.
Báo cáo này cũng đề cập đến một tương lai của giới nhà giàu Việt Nam. Theo đó, 10 năm nữa, Việt Nam sẽ có rất nhiều bạn trẻ Gen Z trở thành tỷ phú.
Vì đâu những kẻ cận giàu HENRYs "hấp dẫn" hơi cả giới thượng lưu?
Ảnh minh họa. Nguồn: Forbes.
"Đừng nghĩ người giàu sẵn sàng trả tiền cho những món hàng xa xỉ, bởi người giàu đã đủ trải nghiệm. Nhưng nhóm HENRYs thì khác".
"Đó là nguyên nhân mà Chanel, Dior, Louis Vuitton… làm những sản phẩm giá thấp hơn, nhắm vào nhóm HENRYs. Thay vì chỉ làm ra những chiếc túi vài ngàn USD, các thương hiệu xa xỉ đã cho ra cả những chiếc túi vài trăm USD để phục vụ nhóm này", ông Robert chia sẻ.
Báo cáo "Những thế lực kinh doanh hàng xa xỉ toàn cầu 2019" của Deloitte cho biết, bởi HENRYs khả năng cao là sẽ gia nhập giới nhà giàu trong tương lai gần, việc đưa nhóm này vào danh mục phục vụ của các thương hiệu luxury sẽ là "mũi tên trúng hai đích": Giữ chân được khách hàng có giá trị trong hiện tại, và Xây dựng mối quan hệ khách hàng, bán được hàng xa xỉ cho họ trong tương lai, khi họ trở thành những người tiêu dùng thực sự giàu có.
7 đặc tính của nhóm HENRYs
Deloitte nhận định HENRYs là phân khúc khách hàng cực quan trọng. Các thương hiệu cao cấp muốn nhắm đến giới HENRYs phải cung cấp các sản phẩm toàn diện, nhưng đồng thời mang tính cá nhân hóa và thể hiện bản thân.
HENRYs rất khác với ông bà cha mẹ của họ. Họ sành công nghệ, thích mua sắm trực tuyến và dễ có thiện cảm với những thương hiệu mang tính bền vững và tạo tác động xã hội.
Còn theo RBNC, giới HENRYs có thể mô tả với 7 đặc tính sau:
1. Tài chính
Tiết kiệm để mua nhà, mua xe, mua bảo hiểm, gửi ngân hàng… là thói quen sử dụng tài chính thường thấy ở nhóm HENRYs. Họ lo lắng cho tương lai bản thân và chuẩn bị những khoản "phòng thân" nhằm đảm bảo sức khỏe và chất lượng cuộc sống. HENRYs có tối thiểu 75.000 USD (khoảng 1,7 tỷ VND) trong tài khoản.
2. Phong thái
Ảnh minh họa. Nguồn: Entrepreneur.
"Giàu chưa chắc đã sang". Có nhiều người lầm tưởng thu nhập cao đồng nghĩa là họ đã có cuộc sống cao cấp. Đẳng cấp thật sự của một HENRYs được khẳng định từ chính suy nghĩ của họ: "Tôi độc lập, tôi mạnh mẽ và tôi có giá trị của mình".
3. Tinh thần
Họ thích dùng "hàng hiệu giá phải chăng". Mặc dù thu nhập của họ tốt nhưng họ sẽ không chi quá nhiều tiền chỉ vì thương hiệu nổi tiếng. Điều họ quan tâm nhất vẫn là giá trị thực của sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Để đáp ứng xu hướng đó, hàng loạt nhãn hiệu thời trang đình đám khéo léo đưa vào những câu chuyện nhân văn để nói về sản phẩm hay dịch vụ của họ.
4. Thể chất
Ảnh minh họa.
Họ dành nhiều thời gian cũng như tiền bạc để đầu tư vào sức khỏe. Họ nhận thức rõ và xem trọng các hoạt động tăng cường thể chất và giữ vóc dáng như tập thể dục, tập gym hay yoga và sử dụng các thực phẩm sạch…
Điều này còn làm hình thành nên mối bận tâm khi nhóm người này khi quyết định làm việc tại các công ty với câu hỏi "Liệu công ty này có tạo điều kiện để nhân viên có thời gian tập thể thao hay chính sách chăm sóc sức khỏe nhân viên không?"
5. Tri thức
Suy nghĩ mới mẻ, luôn khát khao học hỏi và trải nghiệm để thu nạp thêm nhiều kiến thức. Đó là những suy nghĩ vô cùng tích cực của nhóm người này. Họ luôn mong muốn được học nhiều hơn nữa, từ đó hình thành những sở thích như tham gia các khóa học ngắn hạn, các buổi hội thảo, tọa đàm, đi du lịch để khám phá, trải nghiệm…
6. Xã hội
Ở Việt Nam mối quan hệ xã hội đang bị hiểu sai. Người ta nghĩ có connect (kết nối) với những người giàu, người nổi tiếng, chuyên gia… trên mạng xã hội thì đã được xem là "có đẳng cấp". Tuy nhiên, HENRYs hiểu rất rõ network (mối liên hệ) thực sự sẽ được thể hiện ở chỗ bạn biết họ, họ biết bạn và cả hai sẽ sẵn sàng gặp gỡ bên ngoài và hỗ trợ lẫn nhau.
7. Môi trường
Trân trọng thiên nhiên. Họ thích tham gia và ủng hộ các sản phẩm, dịch vụ có góp phần vào bảo vệ môi trường sống và tránh tuyệt đối các thực phẩm từ động vật có khả năng bị tuyệt chủng.
Theo RBNC, đến năm 2020, sẽ có từ 10% - 15% dân số là tầng lớp HENRY, tương đương khoảng 10 triệu người. Trong đó, giới HENRY được chia làm 3 nhóm:
- Nhóm độc thân (chiếm 10% HENRY): Mỗi người sẽ có thu nhập từ 75.000 - 250.000 USD/năm. RBNC lưu ý mức này tính theo thu nhập, chứ không phải chỉ gồm lương - thưởng.
- Nhóm có gia đình (chưa có con, chiếm 25% HENRY): Thu nhập của chồng + vợ từ 75.000 - 250.000 USD/năm.
- Nhóm có gia đình (có 1 hoặc 2 con, chiếm phần còn lại): Thu nhập của chồng + vợ + con (nếu đã đi làm) ở mức 75.000 - 250.000 USD/năm.