Người ta cứ khuyên nên tin vào bản thân nhưng đây là 8 lý do bạn nên gạt ngay ý nghĩ này

23/12/2016 09:17 AM | Sống

Triết gia nổi tiếng Bertrand Russell từng nói: “Nghịch lý của thế giới là những kẻ ngốc và cuồng tín thường chắc chắn về bản thân còn những người khôn ngoan lại nghi ngờ về điều đó”.

Dưới đây là 8 lý do vì sao không nên tin vào chính mình

Chúng ta có xu hướng thiên vị cho bản thân và trở nên ích kỷ mà không hề nhận ra

Có một thuật ngữ trong tâm lý học mang tên Góc nhìn sai lệch của người quan sát (Actor-Observer Bias) chỉ ra rằng cơ bản thì chúng ta đều là những kẻ tồi.

Ví dụ nếu bạn thấy một người vượt đèn đỏ, có thể bạn sẽ nghĩ rằng anh ta thật đáng trách, tại sao lại không thể kiên nhẫn vài giây khiến cho nhiều người đi đường gặp nguy hiểm. Ngược lại, nếu bạn là người vượt đèn đỏ, bạn sẽ tự nhủ với chính mình đó chỉ là vô ý mà thôi, lâu nay người vượt đèn đó có sao đâu.

Cùng một hành động, người khác làm thì đó là một hành động tồi tệ còn bạn thì chỉ là do vô ý.

Steven Pinker gọi hiện tượng này là Lỗ hổng luân lý (Moralization Gap). Bất cứ khi nào mâu thuẫn xuất hiện, chúng ta thường đánh giá cao ý định tốt của bản thân và đánh giá thấp ý định của người khác. Điều này khiến chúng ta tin rằng người khác nên bị trừng phạt thích đáng còn mình nên được hưởng khoan hồng.

Tất cả là những hoạt động vô thức của tâm trí, mọi người khi biện minh cho bản thân đều nghĩ rằng tất cả đều có lý và khách quan. Thực ra sự thật lại không phải vậy.

Bạn không biết điều gì làm mình hạnh phúc (hoặc khốn khổ)

Trong cuốn sách Loạng choạng trong hạnh phúc (Stumbling on Happiness), nhà tâm lý học tại Đại học Harvard – Daniel Gilbert chỉ ra rằng con người không giỏi trong việc nhớ điều gì tác động đến cảm xúc của bản thân trong quá khứ lẫn trong tương lai.

Hóa ra việc cảm thấy buồn như thế nào trong quá khứ lại không hề liên quan đến việc cảm thấy buồn ở những khoảng thời gian khác. Trong thực tế, mỗi khi nhớ tới những điều xấu trong quá khứ chúng ta thường có xu hướng cảm thấy tồi tệ hơn so trước đó và khi nhớ đến kí ức đẹp lại cảm thấy vui hơn so với lúc xưa.

Một cách tương tự với tương lai, chúng ta thường đánh giá quá cao những cảm xúc tích cực mà điều tốt đẹp sẽ mang lại và điều không may mắn sẽ làm chúng ta khốn khổ vô cùng. Điều đó sẽ làm chúng ta không nhận ra những cảm xúc của bản thân trong hiện tại.

Đây là lý do vì sao mọi người biện minh về việc không thể theo đuổi hạnh phúc.

Chúng ta thường dễ bị lợi dụng để đưa ra những quyết định sai lầm

Có bao giờ đang đi trên đường, một người lạ đến đưa cho bạn một gói tăm chẳng hạn và kêu bạn ủng hộ vì họ gặp khó khăn? Bạn biết nó rất kì cục và muốn từ chối nhưng mà bạn lại không muốn bị coi là kẻ hờ hững trước hoàn cảnh khó khăn. Hay một ví dụ khác, trong lúc đang chờ xếp hàng nếu có một người chen lên với lí do chẳng hạn “tôi đang vội” thì bạn sẽ cho họ chen lên đúng không.

Hóa ra quyết định của con người dễ bị chi phối bằng nhiều cách nhau.

Các nhà kinh tế học hành vi chỉ ra rằng chúng ta thường có xu hướng tập trung vào một loại giá thành hơn các loại khác chả vì lý do gì. Nếu đặt một chai rượu 30 đô bên cạnh chai 10 đô, bạn sẽ thấy chai 30 đô rất đắt đúng không. Nhưng nếu đặt thêm một chai 50 đô nữa bên cạnh thì cái giá 30 đô bỗng trở thành vừa phải, có thể là một món hời.

Chúng ta thường chỉ dùng logic và lý luận để lý giải cho những niềm tin có sẵn của bản thân

Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng một số người bị khiếm thị vẫn có thể “thấy” được ngay cả khi họ không nhận ra. Những người mù thường nói họ không thấy được tay của mình ngay cả khi đưa nó ra trước mặt nhưng nếu có ánh đèn lóe lên trước mắt, họ vẫn có thể đoán chính xác nguồn sáng ở phía nào.

Dù vậy thì họ vẫn chỉ nói đó hoàn toàn là đoán đại mà thôi.

Điều này cho thấy sự trớ trêu nực cười: kiến thức và cảm giác biết kiến thức đó hoàn toàn không liên quan đến nhau.

Và cũng giống người mù, chúng ta có thể có kiến thức mà lại thiếu đi cảm giác biết kiến thức. Nhưng ngược lại, bạn có thể cảm tưởng là mình biết điều gì đó ngay cả khi bạn không hề biết chút gì.

Đây chính là nguồn gốc của mọi sự thiên vị và ngụy biện logic. Chúng ta không nhận thức được sự khác biệt giữa cái mình thực sự biết và cái cảm tưởng mình biết.

Cảm xúc chi phối nhận thức của bạn nhiều hơn bạn nghĩ

Nếu giống hầu hết mọi người, bạn sẽ có xu hướng đưa ra những quyết định tồi dựa trên cảm xúc. Đồng nghiệp chỉ buông vài câu bông đùa về món đồ của bạn mà bạn đã nhảy dựng lên, bởi vì đó là vật kỷ niệm quý giá. Thế là bạn quyết định nghỉ việc và “nghỉ” chơi luôn với những người bạn. Đây hoàn toàn là một quyết định không hợp lý.

Tuy vậy đây vẫn chưa phải điều tệ nhất.

Kể cả khi nhận thức được rằng cảm xúc chi phối tới quyết định, chúng ta tránh việc đưa ra quyết định trong khi đang có nhiều cảm xúc thì đó vẫn không phải giải pháp lâu dài. Lý do là cảm xúc có thể ảnh hưởng đến chúng ta hàng tháng hàng năm, kể cả khi chúng ta đã nguôi giận và bắt đầu “phân tích” tình huống trước đó. Những cảm xúc ngắn hạn tại một thời điểm nào đó, hóa ra lại có tác động lâu dài đến quyết định sau này của chúng ta.

Về cơ bản, chúng ta thường dựa vào kí ức về những cảm xúc mà chúng ta đã có trong một thời điểm nào đó trước đây để làm nền tảng đưa ra nhiều quyết định sau đó. Vấn đề là, bạn hoàn toàn không có ý thức về điều này. Cảm xúc mà bạn đã có 3 năm trước đây có thể ảnh hưởng đến bạn bất cứ lúc nào.

Trí nhớ không hề đáng tin

Elizabeth Loftus là một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu thế giới trong lĩnh vực trí nhớ, và cô ấy sẽ là người cho bạn biết rằng trí nhớ của bạn tồi tệ như thế nào.

Cô phát hiện ra rằng những ký ức trong quá khứ có thể dễ dàng thay đổi bởi những trải nghiệm khác trong quá khứ và/hoặc những thông tin mới sai lệch.

Loftus và các nhà nghiên cứu khác đã phát hiện ra rằng:

Trí nhớ của chúng ra không chỉ bị mất dần mà còn dễ đưa ra các thông tin sai lệch theo thời gian. Cảnh báo mọi người rằng kí ức của họ chứa các thông tin sai lệch cũng không giúp giảm đi chúng. Càng có tính cảm thông nhiều bao nhiêu thì càng dễ đồng nhất các thông tin sai lệch vào bộ nhớ bấy nhiêu. Trí nhớ không chỉ bị thay đổi bởi các thông tin sai lệch mà có thể toàn bộ kí ức đã bị cấy vào bộ nhớ. Điều này thường diễn ra khi người tạo ra kí ức đó lại là chính người ta tin tưởng.

Chính vì vậy kí ức của chúng ta hoàn toàn không hề đáng tin như mình nghĩ.

Chúng ta không phải là người như chúng ta nghĩ

Hãy xem xét khía cạnh này: cách bạn thể hiện bản thân trên Facebook có lẽ không thực sự giống như cách bạn thể hiện bản thân khi rời “thế giới ảo”. Cách bạn hành xử lúc ở gần ông bà có lẽ sẽ khác khá nhiều so với lúc đi chơi với bạn bè . Bạn có “cái tôi tại công việc”, “cái tôi tại nhà””, “cái tôi trong gia đình”, “cái tôi khi ở một mình” và còn rất nhiều “cái tôi” khác nữa mà bạn dùng để điều hướng và sống sót trong thế giới xã hội phức tạp này.

Nhưng đâu mới là cái tôi đích thực?

Trong vài thập kỷ qua, các nhà tâm lý xã hội đã khám phá ra sự thật khó chấp nhận: cái tôi đích thực (core self) – cái tôi không thay đổi, cái tôi bất biến – chỉ là ảo tưởng mà thôi.

Ở phương Tây, con người thường xuyên đề cao cái tôi cá nhân trong nhiều nền văn hóa – chưa kể tới trong ngành công nghiệp quảng cáo – khiến chúng ta không ngừng tìm cách “định dạng” bản thân mà hiếm khi chịu dừng lại đủ lâu để tự vấn rằng liệu điều này có cần thiết để lao đầu vào hay không. Có lẽ ý tưởng về việc “nhận dạng bản thân” vừa hại vừa giúp chúng ta. Có lẽ nó đang trói buộc chúng ta nhiều hơn là giải phóng chính mình. Tất nhiên, thật tuyệt khi bạn biết mình muốn hoặc thích gì, nhưng bạn vẫn có thể theo đuổi ước mơ và mục tiêu của bản thân mà không cần phải dựa vào ý niệm chắc chắn về sự định hình bản thân.

 Trải nghiệm thể chất trong thế giới này không hoàn toàn là thật

Con người sở hữu một hệ thống thần kinh phức tạp. Nhờ có nó mà thông tin không ngừng được truyền đến não bộ. Theo một số tính toán, hệ thống giác quan – thị giác, xúc giác, khứu giác, thính giác, vị giác và sự cân bằng – gửi 11 triệu bit thông tin đến não chỉ trong vài giây.

Nhưng kể cả như thế, chúng ta vẫn không thể nhận thức được những sự vật sự việc li ti, khó nhìn thấy. Ánh sáng mà chúng ta thấy được chỉ là một phần nhỏ trong dải quang phổ điện từ. Chúng ta không thể thấy được điều này trong khi các loài chim hay côn trùng lại có thể. Chó có thể nghe và ngửi được những thứ mà chúng ta thậm chí không ý thức được sự tồn tại. Hệ thần kinh của chúng ta hoạt động vừa như bộ máy thu thập thông tin vừa như bộ máy lọc thông tin.

Hơn hết, tâm thức của con người chỉ có thể kiểm soát được 60 bit thông tin trong một giây khi chúng ta đang tham gia vào các hoạt động gắn với trí thông minh (đọc sách, chơi nhạc cụ, …)

Có nghĩa là, bạn chỉ có thể ý thức được khoảng 0.000005454% phần thông tin mà não bộ nhận được trong khi đang còn tỉnh.

Để dễ hiểu hơn, hãy tưởng tượng là với mỗi chữ mà bạn nhìn thấy và đọc trong bài viết này, có 536,303,630 chữ khác mà bạn không thể nhìn thấy.

Về cơ bản, đó là cách chúng ta sống trong thế giới này mỗi ngày.

Diệu Bảo

Cùng chuyên mục
XEM