Đây là năng lực trí tuệ còn quan trọng hơn cả chỉ số EQ

20/10/2017 16:44 PM | Sống

Giáo sư Adam Grant tới từ trường kinh doanh Wharton cho rằng chỉ số EQ là một thứ gì đó mà mọi người đánh giá quá cao trong khi thực tế nó không ảnh hưởng nhiều tới một con người.

Chúng ta từ lâu đã biết rằng những người có chỉ số EQ (trí tuệ cảm xúc) cao đều có khả năng tự ý thức, làm việc tốt với những người khác và thăng tiến nhanh hơn. EQ rất quan trọng với thành công và nó “chiếm đến 58% kết quả của mọi loại công việc.”

Nhưng giáo sư Adam Grant đến từ trường kinh doanh Wharton lại đảo ngược tất cả khi ông viết rằng “Tôi tin đó là một sai lầm nếu đưa ra các lựa chọn về tuyển dụng và thăng chức dựa trên EQ” trong bài báo “Emotional Intelligence is Overrated” của mình.

Vậy điều gì phủ nhận trí tuệ cảm xúc?

Grant quyết định đưa EQ vào một cuộc thử nghiệm và đặt nó bên cạnh một đối thủ nặng ký, đó chính là: Khả năng nhận thức. Cả hai đều liên quan đến quy trình và trải nghiệm tâm lý khi tiếp nhận thông tin – cách chúng ta học, lĩnh hội, lập luận, ghi nhớ và giải quyết vấn đề.

Và Grant mô tả nghiên cứu của mình như sau:

Chúng tôi cho hàng trăm nhân viên kinh doanh làm 2 bài test về EQ để đo khả năng lĩnh hội, am hiểu và kiểm soát cảm xúc. Chúng tôi cũng cho họ làm một bài test 5 phút về khả năng nhận thức, trong đó họ phải giải một số bài toán logic. Sau đó chúng tôi theo dõi doanh số bán hàng của họ trong vài tháng.

Kết quả là khả năng nhận thức mạnh gấp 5 lần so với trí tuệ cảm xúc. Một nhân viên có khả năng nhận thức cao có doanh số hàng năm đạt trung bình hơn 195.000 USD, so với 159.000 USD của những người có khả năng nhận thức trunh bình và 109.000 USD của những người có khả năng nhận thức kém. EQ không mang lại giá trị bổ sung nào sau khi đo lường khả năng nhận thức.

Để khẳng định “EQ không mang lại giá trị bổ sung nào”, Grant đã thực hiện lại nghiên cứu một lần nữa với hàng trăm các ứng viên đang tìm việc, những người biết rằng kết quả có thể mang lại hoặc phá đi cơ hội tìm việc làm của mình. Và một lần nữa, khả năng nhận thức lại đánh bại EQ về hiệu quả.

Dù Grant có ác cảm với EQ hay không, ta cũng không thể phủ nhận được kết quả của những phân tích tổng hợp đầy thuyết phục. Grant còn lấy dẫn chứng từ nghiên cứu của Dana Joseph và Dan Newman về ảnh hưởng của EQ đến hiệu quả công việc. Và họ cũng kết luận rằng “khả năng nhận thức chiếm đến hơn 14% hiệu quả công việc. Trong khi đó EQ chỉ chiếm dưới 1% mà thôi.”

Và điều này như dội một gáo nước lạnh vào Daniel Goleman – người luôn bảo vệ EQ và từ hơn 20 năm trước đã nói rằng “EQ còn quan trọng hơn IQ.”

Grant thừa nhận rằng EQ vẫn rất cần thiết với những công việc đòi hỏi tương tác thường xuyên với nhiều loại người khác nhau (như bán hàng, bất động sản, và tư vấn). Tuy nhiên, khi nói về hiệu quả công việc, khả năng nhận thức vẫn chiếm ưu thế.

“Nếu công việc của bạn chủ yếu là xử lý dữ liệu, đồ vật và ý tưởng chứ không phải là con người và cảm xúc, thì bạn không nhất thiết phải giỏi đoán ý và kiềm chế cảm xúc. Nếu công việc của bạn là sửa xe hơi hoặc cân bằng sổ sách, thì chú ý đến các cảm xúc có thể khiến bạn phân tâm và làm việc thiếu hiệu quả,” Grant cho biết.

Phản ứng của Daniel Goleman

Goleman cho rằng bài báo của Grant là một sự phản đối đầy gay gắt đối với EQ, và nói ông không coi trọng những lập luận của Grant cho lắm.

Daniel Goleman là tác giả của cuốn sách nổi tiếng Emotional Intelligence (1995), nằm trong danh sách những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times trong một năm rưỡi. Tiếp đó ông viết cuốn Working with Emotional Intelligence (1998), cho rằng các kỹ năng phi nhận thức có thể quan trọng tương đương với chỉ số IQ đối với thành công ở nơi làm việc và hiệu quả lãnh đạo, trái ngược với quan điểm của Grant.

Goleman tin rằng có 2 trường phái quan điểm ở đây, và nhận định mang tính học thuật của Grant đã bỏ lỡ một số điểm:
Goleman tin rằng có 2 trường phái quan điểm ở đây, và nhận định mang tính học thuật của Grant đã bỏ lỡ một số điểm:

Giới học thuật có những quy định về bằng chứng khác với những người trong giới doanh nghiệp: Những gì được xuất bản trong các tạp chí chuyên ngành, và những gì thực sự có tác dụng.

Và từ đó nảy sinh sự khác biệt trong các quan điểm tương phản về EQ. Giới học thuật rất khắt khe về các phương pháp nghiên cứu, và phân tích dữ liệu để xem, chẳng hạn, những biến số nào tương quan với nhau ở mức độ nào.

Sự đánh giá EQ mà Grant chọn để nói trong bài báo của mình dựa trên mô hình phổ biến nhất trong giới học thuật. Nó xuất phát từ vô vàn các bài test trí thông minh, và được thiết kế để cho thấy có nhiều khả năng trong lĩnh vực cảm xúc khác biệt so với IQ (dù điều này nghe có vẻ là lẽ thường, nhưng nó lại có ý nghĩa lý thuyết quan trọng trong lĩnh vực kiểm tra tâm lý).

Trong khi đó những người trong giới doanh nghiệp lại có những vấn đề cấp thiết hơn: Tôi nên làm gì vào sáng thứ Hai? Làm sao tôi nhận diện được những người làm việc hiệu quả nhất? Chúng ta nên giúp người khác cải thiện những kỹ năng và khả năng nào?

Theo lời của Goleman, “Thậm chí nếu bạn là một kỹ sư tài năng chế tạo được một công cụ tốt hơn, nhưng sẽ chả có ai chú ý đến bạn trừ khi bạn có thể giao tiếp, thuyết phục và làm mọi người phấn khích về công cụ đó – và điều đó cần có EQ.”

Đinh Vân

Cùng chuyên mục
XEM