Tiến trình sản xuất Vaccine và vai trò của nó trong phục hồi kinh tế
Theo TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV, Việt Nam cần có chiến lược, kế hoạch mua, vận chuyển, phân phối và tiêu thụ vaccine Covid-19; trong đó, cần sớm nghiên cứu, xác định mua từ đâu, mua như thế nào, vận chuyển ra sao, bảo quản và phân phối, tiêu thụ như thế nào?.
TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo về Tiến trình sản xuất Vaccine và vai trò của nó trong hồi phục kinh tế.
Nhóm tác giả đặt vấn đề: Từ đầu năm 2020 đến nay, đại dịch Covid-19 đã tác động nghiêm trọng đến kinh tế toàn cầu do các hoạt động kinh tế, xã hội bị gián đoạn và xáo trộn, gây thiệt hại to lớn về người, chi phí y tế và về kinh tế - xã hội. Qua hơn 9 tháng kể từ khi dịch bệnh bùng phát, mặc dù Chính phủ các nước đã có nhiều biện pháp phòng chống dịch bệnh, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, khôi phục hoạt động, song diễn biến dịch còn phức tạp, chưa rõ nét đỉnh dịch, rủi ro làn song dịch thứ 3, thứ 4 còn hiện hữu. Trong bối cảnh "sống chung với dịch" như vậy; vaccine được đánh giá là một giải pháp hữu hiệu góp phần duy trì cuộc sống bình thường mới và khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội.
Việc nghiên cứu và phát triển Vaccine Covid-19 đã đạt được những tiến bộ tích cực khi các hãng dược phẩm, đơn vị nghiên cứu y tế trên thế giới đã công bố những kết quả nghiên cứu và thử nghiệm vaccine của mình. Đặc biệt, trong tháng 8/2020 đã có 2 quốc gia đầu tiên chính thức cấp phép cho vaccine là Nga (Sputnik V) và Trung Quốc (Ad5-nCOV); trong khi đó, một loạt hãng dược phẩm lớn tại Mỹ và Châu Âu (như Moderna, AstraZeneca…) cũng công bố chính thức thử nghiệm lâm sàng trên người giai đoạn 3, được kỳ vọng sẽ thành công và đi vào sản xuất hàng loạt từ cuối năm 2020, đầu năm 2021; góp phần quan trọng phục hồi kinh tế sau dịch bệnh. Tuy nhiên, đến nay, tính khả thi, hiệu quả và khả năng sản xuất, phân phối số lượng lớn những vaccine nêu trên vẫn là một vấn đề cần được đánh giá và xem xét thận trọng.
Tiếp theo các Báo cáo đánh giá tác động của dịch Covid-19 đến kinh tế thế giới và Việt Nam đã công bố; Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV thực hiện Báo cáo tiến trình nghiên cứu, sản xuất vaccine và đánh giá vai trò của nó trong phục hồi kinh tế. Báo cáo tập trung vào 4 nội dung chính: (i) Cập nhật các công bố, nghiên cứu vaccine tới tháng 9/2020; (ii) Đánh giá cung cầu vaccine Covid-19 giai đoạn 2020-2023; (iii) Vai trò của vaccine đối với phục hồi kinh tế; và (iv) Một số hàm ý đối với Việt Nam.
1. Tiến trình nghiên cứu và sản xuất vaccine
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) (9/2020), hiện nay đã có 172 quốc gia tham gia Sáng kiến phát triển vaccine Covid-19 (COVAX), cùng phối hợp với các đơn vị nghiên cứu, phát triển vaccine nhằm cung cấp một cách công bằng, hiệu quả cho các nước thành viên tham gia khi vaccine được phát triển thành công. Trong đó, các viện nghiên cứu, công ty sinh học, dược phẩm của các nước lớn (Anh, Mỹ, Nga, Trung Quốc) thể hiện vai trò vượt trội về kết quả nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng (có 27 viện nghiên cứu, công ty sinh học, dược phẩm lớn trên thế giới tham gia sáng kiến). Một số tổ chức đã nghiên cứu vaccine ở giai đoạn 3 chưa tham gia COVAX như CanSino và Sinopharm (Trung Quốc), Viện Pasteur (Pháp), Công ty Dược phẩm Inovio (Mỹ).
Kế hoạch nghiên cứu và sản xuất vaccine Covid-19 đã được các nước, các viện nghiên cứu, công ty sinh học lớn...v.v. trên thế giới đầu tư mạnh mẽ về cả nhân lực và tài lực, với tốc độ khẩn trương chưa từng có nhằm có được vaccine Covid-19 trong khoảng 1 năm (so với thời gian trung bình từ 12-36 tháng để nghiên cứu và sản xuất thành công các loại vaccine theo WHO năm 2016). Tính đến giữa tháng 9/2020, WHO công bố đã có 35 loại vaccine đang ở trong giai đoạn đánh giá lâm sàng, trong đó có 9 sản phẩm đang ở giai đoạn 3 - giai đoạn thử nghiệm cuối cùng (điển hình như Moderna – Mỹ, Oxford/AstraZeneca - Anh, CanSino – Trung Quốc, Gamaleya - Nga...), 3 sản phẩm đang ở giai đoạn 2 (điển hình như Novavax – Mỹ, Anhui Zhifei Longcom – Trung Quốc, Curevac – Đức), còn lại mới đang ở giai đoạn 1 hoặc 1/2 (giai đoạn thử nghiệm trên nhóm nhỏ các bệnh nhân).
Đặc biệt, trong tháng 8 và tháng 9/2020, Nga và Trung Quốc đã công bố phê duyệt vaccine Covid-19 (mặc dù những vaccine này chưa hoàn thành giai đoạn 3 của đánh giá lâm sàng); đồng thời đang triển khai tiêm chủng trên diện rộng. Trong khi đó, ngày 16/9/2020, Mỹ công bố dự kiến sẽ có vaccine vào cuối tháng 10/2020 với tỷ lệ hiệu quả của vaccine được kỳ vọng ở mức 70-75%, cao hơn mức phê duyệt của WHO là 50%. Điều đó cho thấy triển vọng tích cực cho việc tìm ra vaccine hữu hiệu đối phó với virus Covid-19.
2. Đánh giá về nguồn cung-cầu vaccine Covid-19
Về phía cung, theo Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc - Unicef (8/2020) nguồn cung vaccine từ COVAX năm 2020 ở mức 1,3 tỷ liều (giả định mỗi người cần 2 liều) và sẽ tăng lên 7,4 tỷ liều năm 2021 nhờ có nhiều vaccine được phê duyệt chính thức và các đơn vị sản xuất gia tăng sản lượng. Nguồn cung trong năm 2021 chủ yếu đến từ AstraZeneca (liên doanh giữa công ty AstraZeneca và Đại học Oxford của Anh) với 2 tỷ liều (chiếm 27%), Pfizer (liên minh giữa 3 công ty BioNTech của Đức, Fosun Pharma củaTrung Quốc và Pfizer của Mỹ) 1,3 tỷ liều (17,6%), Janssen (liên minh giữa Công ty dược phẩm Janssen của Bỉ và Johnson & Johnson của Mỹ) 1 tỷ liều (13,5%)...v.v. Tuy nhiên, nguồn cung vaccine có thể thấp hơn dự kiến do vẫn còn rủi ro một số nghiên cứu vaccine có thể sẽ thất bại hoặc xảy ra sự cố trong giai thử nghiệm (như đã xảy ra đối với vaccine phòng Covid-19 của hãng dược phẩm Gilead Sciences-Mỹ vào tháng 4/2020 vừa qua...).
Về phía cầu, nhu cầu vaccine dự kiến rất lớn song nhu cầu có khả năng được đáp ứng chủ yếu tập trung vào: (i) đơn đặt hàng của các số nước lớn (Mỹ, các nước EU, Nhật, Anh, Brazil) theo các thỏa thuận trực tiếp với các nhà sản xuất với khoảng 3,47 tỷ liều; và (ii) sáng kiến tài trợ vaccine Covid-19 (COVAX) do Liên minh vaccine (GAVI) và WHO khởi xướng với mục tiêu phân phối cho các nước tham gia 110 triệu liều trong năm 2020 và 7,4 tỷ liều vào năm 2021.
COVAX dự kiến phân phối vaccine cho các quốc gia thành viên theo 2 giai đoạn: (i) giai đoạn 1 cung cấp vaccine cho khoảng 3% dân số, trong đó chủ yếu cho các nhân viên y tế; (ii) giai đoạn 2 cung cấp cho khoảng 20% dân số, trong đó chủ yếu là người cao tuổi (trên 65 tuổi) và những người gặp rủi ro cao. Dự kiến vaccine Covid-19 sẽ được cung cấp rộng rãi tại các quốc gia vào cuối năm 2022 với nhu cầu khoảng 15,8 tỷ liều.
Biểu 1: Dự báo cung/cầu vaccine Covid-19 giai đoạn 2020-2023 (tỷ liều)
* Nguồn cung không bao gồm từ các đơn vị sản xuất không tham COVAX.
** Tổng cầu dự kiến theo kế hoạch phân phối của COVAX và không bao gồm các đơn đặt hàng trực tiếp của một số nước lớn đối với các nhà sản xuất.
Nguồn: Unicef (8/2020).
Hiện nay, quá trình nghiên cứu vaccine Covid-19 đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, việc sản xuất, phân phối và tiêu thụ vaccine có thể chậm hơn dự kiến (có thể phải đến cuối năm 2020, đầu hoặc giữa năm 2021) do một số nguyên nhân: (i) quá trình thử nghiệm diễn ra chậm hơn hoặc xảy ra sự cố ngoài ý muốn; (ii) hạn chế về khả năng cung cấp các thiết bị y tế để tiêm phòng như kim tiêm, vỏ chai đựng vaccine (lọ thủy tinh borosilicate)... tại nhiều quốc gia, kể cả các quốc gia phát triển như Mỹ, Châu Âu (Chính phủ Mỹ dự kiến cần có thêm 850 triệu kim tiêm để tiêm vaccine Covid-19 trong khi dự kiến số kim tiêm nước Mỹ sản xuất thêm được chỉ là 420 triệu chiếc trong năm 2021); và (iii) chuỗi cung ứng, vận chuyển tại các quốc gia không đáp ứng kịp với nhu cầu. Để vận chuyển số lượng vaccine như kế hoạch trên ước tính cần 8 nghìn máy bay Boeing 747 (theo Hiệp hội Hàng không quốc tế - IATA); và vaccine phải được lưu trữ và vận chuyển trong điều kiện nhiệt độ từ 2-8 độ C.
3. Vai trò của vaccine đối với phục hồi kinh tế
Quá trình phục hồi kinh tế thế giới và các nước (trong đó có Việt Nam) phụ thuộc vào 3 yếu tố chính: (i) tình hình kiểm soát dịch Covid-19; (ii) tình hình cung cấp và triển khai hiệu quả các chính sách, gói hỗ trợ của Chính phủ các nước; và (iii) hợp tác quốc tế trong việc thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch bệnh, khôi phục kinh tế; trong đó việc phát triển vaccine là một trong những yếu tố rất quan trọng. Các tổ chức quốc tế như WB, IMF, WHO...v.v. đều nhận định vaccine là yếu tố quan trọng đảm bảo kiểm soát được đại dịch cũng như hỗ trợ phục hồi kinh tế từ năm 2021. Tuy nhiên, đến nay chưa có đủ thông tin, dữ liệu để đưa ra các đánh giá định lượng về tác động của việc nghiên cứu và sản xuất thành công vaccine Covid-19 đối với phục hồi, tăng trưởng kinh tế thế giới, khu vực và từng quốc gia.
Mặc dù vậy, vaccine có ít nhất 3 vai trò quan trọng đối với sức khỏe và phục hồi kinh tế, đó là:
- Một là, tạo miễn dịch cộng đồng, bảo vệ sức khỏe người dân: theo một số nghiên cứu, đối với virus Covid-19, miễn dịch cộng đồng có thể đạt được nếu 60% cư dân đạt được miễn dịch. Việc tiêm vaccine diện rộng sẽ giúp nhanh chóng kiểm soát được sự lây nhiễm dịch bệnh và tạo cơ sở để khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, vaccine cũng sẽ giúp giảm các chi phí y tế, phòng chống dịch bệnh có thể phát sinh.
- Hai là, giảm bớt sức ép đối với hệ thống y tế: đại dịch Covid-19 lan rộng toàn cầu đã đặt hệ thống y tế các nước dưới sức ép rất lớn trong việc điều trị cho số lượng lớn bệnh nhân trong cùng 1 thời điểm gây ra thiếu vật tư y tế phòng dịch và điều trị, đồng thời suy giảm nguồn lực điều trị cho các loại bệnh khác. Việc có vaccine sẽ giúp giảm sự quá tải tại các bệnh viện, cơ sở y tế đồng thời củng cố tính bền vững của hệ thống y tế.
- Ba là, góp phần khôi phục kinh tế nhanh và bền vững: theo GAVI, các nghiên cứu trước đây (như Sanofi, 2014) cho thấy việc tiêm chủng vaccine cúm mùa trước giai đoạn dịch bệnh lan rộng có thể giúp nền kinh tế khỏi mức suy giảm 0,13-2,3 điểm % tăng trưởng GDP so với không có vaccine. Kinh tế có thể hồi phục nhờ ba tác dụng: (i) đảm bảo sức khỏe cho lực lượng lao động và tăng năng suất lao động; (ii) khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội khi kiểm soát được mức độ lây nhiễm của dịch bệnh; và (iii) thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng của các hộ gia đình, quyết định đầu tư của các doanh nghiệp khi sức khỏe cộng đồng được đảm bảo. Tuy vậy, căn cứ trên tình hình thực tế của việc phát triển vaccine, trong năm 2021, hầu hết các nước sẽ vẫn phải sống trong "trạng thái bình thường mới" - đó là vừa phòng chống dịch bệnh vừa khôi phục hoạt động kinh tế - xã hội vừa do chưa đủ nguồn cung vaccine để đạt được miễn dịch cộng đồng. Với đà này, đa số các dự báo của các tổ chức quốc tế cho thấy kinh tế thế giới chỉ có thể phục hồi từ năm 2021 và phải đến năm 2023 mới có thể phục hồi trở lại mức của năm 2019.
4. Ba hàm ý đối với Việt Nam
Một là, căn cứ trên tình hình phát triển vaccine, Việt Nam sẽ khó có tiềm lực tài chính để có thể cạnh tranh với các nước lớn mua trực tiếp từ các nhà sản xuất (như Mỹ, Anh, EU, Nhật Bản), do đó dự báo người dân Việt Nam sẽ được tiêm vaccine chậm hơn so với các nước lớn khoảng 6 tháng (kỳ vọng sớm nhất vào nửa cuối năm 2021). Do đó, trong khoảng 1 năm tới, Việt Nam vẫn phải sống chung với dịch bệnh trong trạng thái "bình thường mới", tiếp tục phải thực hiện mục tiêu kép "vừa phòng chống dịch hiệu quả, vừa đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội". Việc kiểm soát dịch bệnh cần được tiếp tục thực hiện nghiêm túc, tránh lơ là chủ quan cùng với việc nối lại các hoạt động giao thương quốc tế cần được tiến hành thận trọng tránh việc dịch bệnh thâm nhập trở lại cộng đồng. Việt Nam có nhiều khả năng phục hồi kinh tế nhanh và sớm hơn trong khối ASEAN cũng như trên thế giới, nhưng sẽ còn nhiều cản trở, thách thức ở phía trước do diễn biến dịch bệnh rất khó lường.
Hai là, Việt Nam cần có chiến lược, kế hoạch mua, vận chuyển, phân phối và tiêu thụ vaccine Covid-19; trong đó, cần sớm nghiên cứu, xác định mua từ đâu, mua như thế nào, vận chuyển ra sao, bảo quản và phân phối, tiêu thụ như thế nào?. Đồng thời, Việt Nam cần: (i) chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để triển khai vaccine như đào tạo cán bộ y tế, chuẩn bị thiết bị y tế liên quan...; (ii) xác định các đối tượng được ưu tiên tiêm vaccine (nhân viên y tế và người có bệnh nền, người cao tuổi....); (iii) tiến trình tiêm vaccine (từ thử nghiệm đến diện rộng); xác định phạm vi tiêm chủng để đạt được mức miễn dịch cộng đồng, tránh tiêm chủng đại trà trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế; và (iv) tính toán khả năng cân đối ngân sách để quyết định kinh phí tiêm vaccine sẽ được lấy từ nguồn nào...v.v.
Ba là, để chủ động về lâu dài, bài toán nghiên cứu và tự sản xuất vaccine (trong đó có vaccine Covid-19) cần nghiêm túc được đặt ra, đầu tư và quyết tâm triển khai thực hiện.