Những vụ bê bối bán visa thu triệu đô ở sứ quán Mỹ
Những chuyện bê bối về việc cấp visa từng xảy ra ở nhiều sứ quán Mỹ khi nước Mỹ luôn là điểm đến mong muốn của nhiều người trên thế giới, trong khi việc vượt qua quá trình xin visa là không hề dễ dàng.
Đầu năm 2000, tại sứ quán Mỹ ở thủ đô Georgetown của Guyana, một viên chức sứ quán tên Thomas Carroll, khi đó 32 tuổi và cũng là người phụ trách bộ phận visa không di dân, bị phát hiện đã bán tới 800 visa với giá từ 10.000-15.000 USD/visa và kiếm khoảng 4 triệu USD. Đây là một trong những vụ bê bối bán visa lớn nhất trong lịch sử Bộ Ngoại giao Mỹ.
Bán visa, thuê sát thủ
Khi vụ việc bại lộ, Carroll thậm chí thuê cả sát thủ để đe dọa những nhân chứng định ra làm chứng chống lại y. Theo tờ Los Angeles Times, Carroll khi đó thường sử dụng “cò” để bán visa thay vì bán visa trực tiếp cho người mua.
Tháng 3-2000, khi gặp người kế nhiệm mình ở sân bay quốc tế Miami, Carroll, từng làm tại các sứ quán ở Đài Loan và Trung Quốc đại lục, trắng trợn đề nghị người kế nhiệm “phê duyệt 250 visa để đổi lấy 1 triệu USD tiền mặt”. Carroll thậm chí còn khuyên người kế nhiệm giấu tiền trong két sắt thay vì gửi tiền vào ngân hàng để tránh bị phát hiện tài sản tăng đột biến.
Khi bắt giữ y tại nhà bố mẹ ở Chicago, các điều tra viên phát hiện rất nhiều tiền và vàng với tổng trị giá khoảng 1,8 triệu USD. Để tránh sự nghi ngờ, Carroll khi còn tại chức đã đề nghị cấp visa cho một số đơn đạt chuẩn nhưng lại dùng những suất này cho những người khác - cách thức để tránh bị điều tra từ cấp trên và bộ phận chống lừa dối visa.
Tờ Los Angeles Times khi đó phỏng vấn một quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ thì quan chức này nói việc điều tra rất khó khi cán bộ visa ở các sứ quán có quyền rất nhiều trong việc cấp visa. Ngoài ra, quy định cũng yêu cầu các sứ quán phải hủy các đơn xin visa sau một năm nên rất khó theo dõi lượng đơn xin visa này.
Năm 2002, Thomas Carroll bị kết án 22 năm tù. Tuy vậy, sau đó đến năm 2004, tòa phúc thẩm xem xét lại án và giảm mức án của y xuống còn 6 năm. Ít nhất 26 người trong tổng số những người từng được Carroll bán visa sau đó đều phạm tội từ gây mất trật tự cho đến tội nặng như cưỡng dâm tập thể.
Một vụ bán visa khác ở sứ quán Mỹ tại Việt Nam
Năm 2003, lại có hai nhân viên sứ quán Mỹ ở thủ đô Colombo của Sri Lanka là Long N. Lee (51 tuổi) và chồng là Acey R. Johnson (32 tuổi) bị kết tội lừa đảo visa và buôn người. Hai nhân viên này sau đó bị kết tội nhận hối lộ và cấp trái phép khoảng 200 visa từ sứ quán Mỹ ở Sri Lanka, Fiji và Việt Nam.
Vụ điều tra kéo dài trong vòng 11 tháng. Theo tài liệu của Bộ Tư pháp Mỹ, khi sứ quán Mỹ ở Việt Nam mới thành lập, bà Lee là cán bộ lãnh sự đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội từ năm 1995-1997. Sau đó bà Lee là người phụ trách hành chính ở sứ quán Mỹ tại Sri Lanka và Fiji từ năm 1997-2003. Ông Johnson thì làm nhân viên lãnh sự ở đại sứ quán Mỹ tại Sri Lanka và Fiji từ năm 1997-2003.
Bà Lee sau này thừa nhận đã sắp xếp chuyện bán visa ở Hà Nội từ năm 1995. Theo cách làm này, các “cò” visa ở vùng bắc Virginia, vùng Sacramento và vùng Los Angeles sẽ lấy tiền từ những người nước ngoài, chủ yếu là người Ấn Độ và Việt Nam, rồi giúp những người các nước này qua quá trình xin visa. Lee và/hoặc Johnson sau đó sẽ tác động để visa được cấp rồi nhận tiền hoa hồng, số tiền này lên tới hàng trăm ngàn USD. Theo chỉ dẫn của Lee và Johnson, các cò môi giới sẽ chuyển tiền thành nhiều đợt, mỗi đợt đều dưới 10.000 USD để tránh sự chú ý của các ngân hàng và các cơ quan pháp lý. Tiền sẽ được chuyển cho Lee, Johnson hoặc người thân của họ. Trong số các “cò” visa trong vụ này có hai người Việt Nam ở Gardena, California.
Cả Lee và Johnson đều bị kết án khoảng 5 năm tù, bị buộc phải nộp lại 750.000 USD tiền thu nhập bất chính và nộp phạt mỗi người 12.500 USD. Hai người sau khi ra tù phải chịu thêm ba năm quản thúc.
Tới năm 2009, một nhân viên ngoại giao khác của Mỹ, Michael John O’Keefe, 62 tuổi, phó phụ trách bộ phận visa không di dân ở lãnh sự quán Mỹ tại Toronto, Canada, bị phạt 1 năm tù và phải nộp phạt 5.000 USD vì liên quan tới bê bối visa. O’Keefe, có 22 năm làm việc trong ngành ngoại giao. Trong giai đoạn từ 2004-2006, anh ta bị phát hiện đã nhiều lần nhận vé hai chiều giữa Toronto và Las Vegas cùng với dịch vụ vũ nữ, tiền ăn ở New York, cùng nhiều đồ trang sức để đẩy nhanh quá trình phỏng vấn và cấp visa cho 21 nhân vật liên quan tới công ty đồ trang sức STS Jewels. Liên quan tới vụ này, một nhân vật của STS Jewels cũng đã phải lãnh án tù.