Thế nào là Phật Pháp? (P3)
10/05/2013 12:08 PM
|
CHƠN LÝ TUYỆT ĐỐI
Một thực thể không lệ thuộc nhơn quả, duyên sanh, thoát ngoài đối đãi là chơn lý tuyệt đối. Không thuộc nhơn quả nên không sanh diệt vô thường. Không thuộc duyên sanh nên không phải hợp tướng giả dối.
Thoát ngoài vòng đối đãi nên không trị liệu, không so sánh, không luận bàn, không suy nghĩ đến được. Thực thể này không lệ thuộc thời gian, không bị chi phối của không gian, vượt ngoài mọi đối tượng trong vũ trụ.
Chính nó là sinh mạng, là mạch sống của chúng sinh, mà chúng sinh không nhận ra nó. Nó hiển nhiên hằng có mặt nơi chúng ta, mà chúng ta lãng quên nó một cách đáng thương. Nó là thể chẳng sanh chẳng diệt vĩnh cữu trường tồn của chúng ta, chúng ta không biết đến nó, đi nhận cái sanh diệt tạm bợ làm mình.
Bỏ quên thực thể này là vô minh là si mê, nhận được nó là giác ngộ là trí tuệ. Bỏ quên nó, đi theo sanh diệt là luân hồi, nhận sống với nó là vô sanh giải thoát. Bởi thực thể này hệ trọng dường ấy, nên chúng ta phải biết : nó tên gì ? Làm sao nhận ra nó ? Nhận được nó có lợi ích gì ? Chúng tôi sẽ theo thứ tự giải quyết những thắc mắc này.
Thực thể này nguyên không có tên, trong Phật pháp tùy công dụng gắng gượng đặt rất nhiều tên: Kinh Kim Cang gọi là Kim Cang Bát Nhã Ba la mật, tức là trí tuệ cứu cánh như kim cang. Bởi vì trí tuệ này không có cái gì phá hoại được nó, mà nó phá hoại tất cả, như chất kim cang. Kinh Viên Giác gọi nó là Viên Giác tánh, là tánh giác tròn đầy.
Vì đối với các thứ chơn lý, chúng ta nhận được từng phần chơn lý nào thì giác ngộ phần chơn lý ấy, nên gọi là phần giác. Chỉ nhận được Chơn lý tuyệt đối này, mới gọi là giác ngộ viên mãn.
Kinh Pháp Hoa gọi là Tri Kiến Phật hay Phật thừa. Bởi vì nó là cái thấy biết Phật, là cỗ xe đưa người đến Phật quả. Kinh Hoa Nghiêm gọi là trí huệ Phật. Vì nhận được thực thể này là trí huệ giác ngộ của chư Phật. Kinh Lăng Nghiêm gọi là Chơn tâm hay Như lai tàng. Nó là tâm thể chơn thật hay kho tàng Như Lai của chúng sanh. Kinh Duy Ma Cật gọi là Pháp môn bất nhị, vì nó vượt ra ngoài vòng đối đãi hai bên. Thiền Tông gọi là Chơn Tánh. Nó là tánh chơn thật của tất cả chúng sanh. Lại còn những tên thông dụng là : Chơn Như, Phật tánh, Pháp Thân, Đạo, Bản Lai diện mục..., không thể kế xiết.
Tạm biết tên thế này một cách khái quát rồi, chúng ta cần phải nhận ra mặt mày nó mới là điều thiết yếu. Song phàm có nói năng có trình bày đều thuộc về tương đối, làm sao diễn đạt khiến người chưa hiểu nhận được. Đây quả là điều thiên nan vạn nan. Tuy nhiên, chúng tôi cũng gắng gượng, trước tạm đặt những nguyên tắc, kế dẫn lời Phật dạy trong kinh, sau cùng nhắc lại những phương tiện của Thiền sư, họa chăng quí độc giả có nhận được phần nào chăng.
Chúng ta tạm đặt những nguyên tắc để khả dĩ nhận ra mặt mày của nó.
Phàm cái gì "có hình tướng đều do duyên hợp là hư giả", cái gì "có tác động là sanh diệt"', cái gì "đối đãi là không thật". Ngược lại, cái gì "không hình tướng, không tác động, khống đối đãi là chơn thật, thường còn, vô sanh".
Cái không hình tướng thì không giới hạn chỗ nơi trong ngoài. Vừa đặt câu hỏi tìm chỗ nơi với nó là sai.
Cái không tác động thì không sanh diệt, không bị vô thường theo thời gian. Đặt vấn đề thời gian với nó là sai.
Cái không đối đãi thì không còn so sánh, không phân biệt. Đặt vấn đề so sánh phân biệt với nó là sai.
Thực thể này tràn đầy hiện hữu nơi chúng ta, Vừa dấy tâm tìm kiếm nó là sai.
Nó là thực thể của giác tri, không phải cái đối tượng giác tri. Nếu khởi nghĩ cầu biết nó là sai.
Nó không hình tướng, không tác động, không đối đãi, mà có mặt khắp ba nơi ấy. Cho nên nghĩ ly khai hình tướng tác động đối đãi để tìm nó là sai.
Yếu chỉ nhận ra nó là tự ta "trực nhận, thầm nhận".
Lời Phật dạy, phương tiện Tổ chỉ đều là lối "đập cỏ rắn sợ" hay "vỗ nước cá đau đầu" mà thôi. Chúng ta muốn nhận ra nó phải khéo nhìn theo tinh thần "ngón tay chỉ mặt trăng". Mặt trăng không nằm tại đầu ngón tay, khéo nương theo ngón tay thấy mặt trăng ở tận trong hư không. Hoặc nhìn theo tinh thần soi gương. Nhơn thấy bóng trong gương, biết được mặt thật của mình, đừng chấp bóng là thật, đợi khi xoay gương mất bóng la hoảng lên "mất mình".
Đây là phương tiện tạm đặt những nguyên tắc, nương nó khả dĩ chúng ta thấy được thực thể chính mình.
Thực thể này biếu lộ thường xuyên nơi sáu cơ quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) của chúng ta, mà không lệ thuộc hoàn toàn sáu cơ quan ấy. Dễ nhận dễ thấy nhất là ở mắt và tai. Vì thế, đức Phật khi muốn chỉ thực thể chẳng sanh chẳng diệt ấy, thường dùng phương tiện chỉ ngay nơi mắt và tai của chúng ta.
...
Chơn lý tuyệt đối không có ở bên ngoài, mà nằm sẵn ngay nơi chúng ta. Chúng ta muốn tìm nó, phải biết quay lại mình, dừng chạy ra ngoài tìm kiếm vô ích. Chân lý tuyệt đối nơi mình chính là ông chủ của mình, nhận ra ông chủ thì mọi chân lý trong vũ trụ đều thấy rõ. Nhận ra và sống được với ông chủ của mình thì vòng luân hồi chấm dứt, mọi khổ đau hết sạch, được giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Theo Thích Thanh Từ
Theo Thư viện Hoa Sen
Copy link
Link bài gốc
Lấy link!