Sau 10 năm "đổ tiền tấn" vào Việt Nam, các tỷ phú Thái Lan nhận về trái ngọt hay trái đắng?
Sau thập kỷ thâu tóm ồ ạt các doanh nghiệp đầu ngành, bức tranh đầu tư của các tỷ phú Thái Lan đang xuất hiện sự phân hóa rõ rệt thay vì gam màu hồng toàn diện.
Dòng vốn Thái từng được biết đến với đặc tính "chịu chi" và tầm nhìn dài hạn, nay đối mặt với thực tế khắc nghiệt hơn. Số liệu tài chính cho thấy, bên cạnh những khoản sinh lời tốt như Nhựa Bình Minh hay Vinamilk, nhiều thương vụ đình đám đang chìm trong sắc xám khi phải tái cơ cấu, cắt lỗ hoặc chứng kiến giá trị vốn hóa sụt giảm.
Quyết liệt "cắt lỗ" tại Nguyễn Kim
Điển hình cho việc tái cấu trúc mạnh tay là quyết định rút lui khỏi mảng bán lẻ điện máy của Central Retail. Sau 10 năm tham vọng thâu tóm và vận hành Nguyễn Kim, tập đoàn này vừa công bố chuyển nhượng lại đơn vị sở hữu chuỗi điện máy này cho PICO Holdings với giá trị 36 triệu USD.
Nguồn số liệu: BCTC của Central Retail, MWG, dữ liệu tổng hợp của cafef
Nhìn lại lịch sử tài chính, sự thất thế của Nguyễn Kim thể hiện rõ nét qua cuộc đua song mã với đối thủ nội địa. Năm 2015 – thời điểm người Thái bắt đầu rót vốn – Nguyễn Kim vẫn là "anh cả" với doanh thu 8.778 tỷ đồng, gấp đôi con số 4.482 tỷ đồng của Điện Máy Xanh. Tuy nhiên, gió đã đảo chiều chỉ sau một năm khi đối thủ vọt lên dẫn trước vào 2016. Đến 9 tháng năm 2025, khoảng cách đã trở nên mênh mông: trong khi Điện Máy Xanh đạt 59.500 tỷ đồng thì Nguyễn Kim co cụm về mức 4.390 tỷ đồng. Từ vị thế dẫn đầu, quy mô doanh thu của Nguyễn Kim hiện chỉ còn bằng 1/14 so với đối thủ.
Tính đến cuối năm 2024, chuỗi này chỉ còn duy trì 49 cửa hàng sau khi đóng cửa các điểm bán không hiệu quả. Con số này khá khiêm tốn khi đặt cạnh mạng lưới hơn 2000 của Điện Máy Xanh và 625 cửa hàng FPT Shop.
Hệ quả tài chính của việc rút lui này được phản ánh rõ trong thoong cáo của Central Retail với khoản lỗ kế toán và phi tiền mặt ước tính khoảng 5.900 triệu Baht (tương đương 187 triệu USD). Mức giá thoái vốn hiện tại thấp hơn đáng kể so với tổng vốn đầu tư ban đầu ước tính hơn 200 triệu USD mà tập đoàn này đã bỏ ra để nắm quyền chi phối. Động thái này cho thấy sự quyết liệt của nhà đầu tư Thái trong việc cắt bỏ các mảng kinh doanh kém hiệu quả để dồn lực vào hai trụ cột chính là thực phẩm và bất động sản thương mại.
Áp lực định giá ở thương vụ lịch sử Sabeco
Ở quy mô vốn lớn hơn, khoản đầu tư vào Tổng Công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) của ThaiBev cũng đang chịu áp lực lớn về mặt định giá. Năm 2017, thông qua Vietnam Beverage, tỷ phú Charoen Sirivadhanabhakdi đã chi khoảng 110.000 tỷ đồng (tương đương 4,8 tỷ USD theo tỷ giá thời điểm đó) để sở hữu 53,59% vốn điều lệ. Đây được ghi nhận là thương vụ thoái vốn nhà nước lớn nhất lịch sử chứng khoán Việt Nam.
Tuy nhiên, sau 8 năm, giá trị thị trường của khoản đầu tư này hiện đã sụt giảm mạnh. Ước tính theo thị giá cổ phiếu SAB hiện hành là 48.750 đồng, giá trị vốn hóa lô cổ phiếu hơn 33.500 tỷ đồng, giá trị đã giảm khoảng 70% so với giá vốn, tương ứng mức giảm định giá trên sổ sách khoảng 3,5 tỷ USD.
Mặc dù dòng tiền cổ tức từ Sabeco vẫn chảy đều đặn về túi nhà đầu tư Thái với tổng giá trị lũy kế hơn 15.000 tỷ đồng, con số này vẫn chưa đủ để bù đắp sự chênh lệch về vốn gốc. Bối cảnh ngành bia gặp khó khăn do các quy định về nồng độ cồn và thuế tiêu thụ đặc biệt, cộng với áp lực cạnh tranh gay gắt, đã khiến lộ trình hoàn vốn của thương vụ kỷ lục này trở nên thách thức hơn nhiều so với dự tính ban đầu. Dù vậy, phía ThaiBev vẫn duy trì quan điểm nắm giữ dài hạn và coi Sabeco là tài sản chiến lược tại khu vực Đông Nam Á.
Nghịch lý "con tốt - mẹ nguy"
Một trường hợp cá biệt khác phản ánh rủi ro trong cấu trúc tài chính của nhà đầu tư là thương vụ Stark Corporation mua lại Cáp điện Thịnh Phát (Thipha Cable) và Kim loại màu và nhựa Đồng Việt (Dovina). Năm 2020, Stark Corp đã chi khoảng 240 triệu USD (gần 5.000 tỷ đồng) để thâu tóm 100% vốn của bộ đôi doanh nghiệp cáp điện Việt Nam. Dưới sự quản lý mới, hai doanh nghiệp này đã tái cơ cấu thành công, chuyển dịch từ buôn bán nguyên liệu thô sang sản xuất thành phẩm, giúp lợi nhuận ròng tăng vọt lên mức hơn 700 tỷ đồng năm 2021, vượt qua cả lợi nhuận của nhiều doanh nghiệp cùng ngành đang niêm yết.
Nghịch lý nằm ở chỗ, trong khi tài sản tại Việt Nam hoạt động hiệu quả, công ty mẹ tại Thái Lan lại vướng vào bê bối gian lận tài chính chấn động. Đỉnh điểm là vào giữa năm 2025, Tòa án Phá sản Trung ương Thái Lan đã tuyên bố ông trùm Wanarat Tangkaravakun phá sản, đồng thời đối mặt với vụ kiện tập thể từ hơn 3.300 chủ nợ với tổng số tiền đòi bồi thường kỷ lục lên tới 130 tỷ Baht (tương đương khoảng 3,8 tỷ USD).
Việt Nam vẫn là "mảnh đất lành"
Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính lũy kế đến cuối tháng 9/2025, Thái Lan hiện đang có 775 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam, với tổng vốn đăng ký hơn 14,96 tỷ USD, xếp thứ 8 trong tổng số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam.
Nhiều tập đoàn vẫn đang gặt hái quả ngọt nhờ chiến lược đầu tư đúng đắn vào các doanh nghiệp sản xuất và tiêu dùng thiết yếu. Điển hình như SCG, khoản đầu tư vào Nhựa Bình Minh (BMP) được ví là "gà đẻ trứng vàng" khi đại gia này đã chính thức hòa vốn đầu tư chỉ nhờ dòng tiền cổ tức sau 13 năm thâu tóm, với hơn 1.100 tỷ đồng tiền mặt chảy về túi chỉ trong 3 năm gần nhất (2023-2025).
Hay mới đây vào tháng 12/2025, F&N – công ty thuộc sở hữu của tỷ phú Thái Lan Charoen Sirivadhanabhakdi– tiếp tục chi hơn 6.000 tỷ đồng để mua lại 96 triệu cổ phiếu VNM từ đối tác ngoại, nâng sở hữu lên sát ngưỡng 25%. Động thái này không chỉ tái khẳng định niềm tin dài hạn mà còn giúp tỷ phú Charoen củng cố vị thế tại Vinamilk – nơi đã mang về cho ông con số kỷ lục 16.500 tỷ đồng cổ tức lũy kế kể từ khi rót vốn.




