Thế hệ mới gia đình Koch: Phát triển thành tập đoàn đầu tư tư nhân (P.2)
Khởi nguồn từ công ty trong ngành dầu khí với doanh thu 200 triệu USD, ngày nay Koch Industries có mặt trong tất cả những ngành xương sống của nền kinh tế Hoa Kỳ với mức doanh thu 115 tỷ USD. Tất cả là nhờ vào người đứng đầu: Charles Koch.
Khởi nguồn là một công ty trong ngành dầu khí, ngày nay Koch hoạt động như là một quỹ đầu tư vào các công ty tư nhân. Họ sở hữu một lượng tiền mặt khổng lồ nhằm phục vụ nhu cầu đầu tư vào các công ty có tiềm năng tạo ra lợi nhuận lâu dài. Khi công ty tiến vào một lĩnh vực mới, họ vạch ra chiến lược cụ thể và kiên trì theo đuổi.
Một ví dụ là chỉ 10 năm trước, Koch chỉ mới là một tay ngang trong ngành sản xuất phân bón. Sau đó, họ âm thầm thực hiện một loạt các vụ đầu tư và từ đó trở thành công ty sản xuất và phân phối phân bón lớn thứ 3 trên toàn Hoa Kỳ. Hiện nay, Koch giữ vai trò quan trọng trong hệ thống cung ứng thực phẩm toàn cầu – một vị thế mà công ty coi là tiên phong cho các hoạt động đầu tư khác trong lĩnh vực kinh doanh sản phẩm nông nghiệp.
Để hiểu rõ thêm về chiến lược và phương pháp của Koch, tạp chí Fortune đã bỏ ra hàng tháng trời để phỏng vấn các nhà quản lý trước đây và hiện tại của công ty này, tham khảo các tài liệu sẵn có và thảo luận với các đối thủ của họ. Fortune đã rút ra kết luận Koch là một tổ chức hoạt động vô cùng nguyên tắc, có kế hoạch rõ ràng để xây dựng vai trò của mình trong các lĩnh vực phân phối điện, thực phẩm, công nghệ và trong tương lai gần xâm nhập vào lĩnh vực cung cấp nước.
Tất cả những thành tựu này phần lớn nhờ vào trí óc của một người: Charles Koch. Người ta thường cho rằng anh em nhà Koch là một thực thể duy nhất, sự thật là David, 73 tuổi, người em, chỉ đóng vai trò mờ nhạt trong công ty. David giữ chức phó chủ tịch điều hành, nhưng ông sống nhiều năm tại New York và dành phần lớn thời gian cho các hoạt động xã hội như từ thiện.
Năm 2008, ông tài trợ cho Lincoln Center 100 triệu USD và được đặt tên cho một rạp hát. Charles, 78 tuổi, sống tại Wichita và giữ chức vụ CEO kiêm chủ tịch công ty từ cha ông, Fred Koch, người đã mất vào năm 1967. Charles và David Koch đã từ chối phỏng vấn cho bài báo này.
Nhìn vào sự phát triển của Koch, ta có thể kết luận Charles là một trong những nhà quản trị tài ba nhất nửa sau thế kỷ 20. Khi ông lên nắm quyền khoảng 50 năm về trước, doanh thu của Koch vào khoảng 200 triệu USD (hiện nay là 115 tỷ USD). Ông xây dựng công ty dần dần dựa trên nền móng của cha ông.
Fred Koch vốn là con của một người Hà Lan di cư, theo học ngành kỹ sư tại MIT – Học Viện Kỹ Thuật Massachusetts và sáng tạo ra phương pháp mới để chuyển dầu mỏ thành xăng vào cuối những năm 20 của thế kỷ 20. Ông đã làm việc cho Liên Xô dưới thời Joseph Stalin một khoảng thời gian trước khi quay về Hoa Kỳ để thành lập công ty lọc dầu của mình vào năm 1940. Vốn là một thành viên của Hội John Birch, Fred đã truyền lại quan điểm bảo thủ cho các con mình, cả 4 người con.
Người em song sinh của David, Bill là một doanh nhân và là một thủy thủ, người đã thắng cuộc thi thuyền buồm Hoa Kỳ vào năm 1992 và gần đây thường xuất hiện trên truyền thông tuyên truyền chống việc lắp đặt các tuốc bin gió tại bờ biển Cape Cod. Người anh cả, Frederick, năm nay 80 tuổi là một nhà sưu tập và nhà từ thiện.
Vào năm 1983, Charles và David mua lại cổ phần của Bill và Frederick trong công ty với giá trị chỉ hơn 1 tỷ USD – gây ra một mối thù hằn day dẳn trong gia đình này, cuối cùng vào cuối những năm 90 của thế kỷ 20, Bill và Frederick đã đâm đơn kiện vì cho rằng họ đã bị ép giá, vụ việc kết thúc vào năm 2001 với một thỏa thuận hòa giải không được tiết lộ.
Cơ cấu của Koch Industries ngày nay hoàn toàn khác so với thời Fred mới sáng lập công ty. Họ có một bộ phận trung ương, với tên gọi chính thức là Koch Equity Development, báo cáo trực tiếp cho Charles và những lãnh đạo cao cấp khác, là bộ phận vạch ra chiến lược, đánh giá những thương vụ tiềm năng trong khoản 10 đến 15 năm.
Công ty cũng có những bộ phận phát triển nhỏ khác trong nội bộ tập đoàn, chẳng hạn như Koch Fertilizer và Koch Minerals. Những bộ phận này liên tục theo dõi tình hình hoạt động trong ngành kinh doanh của mình, gửi thông tin ngược về cho bộ phận trung ương. Hàng năm, Koch bỏ ra khoảng 100 triệu USD cho hoạt động nghiên cứu của các nhóm phát triển này, theo Feilmeier.
Công ty cũng thúc đẩy các hoạt động tình báo công nghiệp – chẳng hạn như trong hoạt động giao dịch hàng hóa cơ bản của họ. Koch là công ty giao dịch hàng hóa cơ bản lớn thứ 4 trên thế giới với địa điểm giao dịch tại Houston, New York, Geneva, Singapore và Wichita, theo xếp hạng năm 2011 của hãng thông tấn Reuters.
Các giao dịch viên của Koch mua và bán các hợp đồng kỳ hạn cho nhiều loại hàng hóa từ dầu mỏ, bạc cho tới nước cam ép. Ngoài nhiệm vụ tạo ra lợi nhuận kinh doanh, các giao dịch viên của Koch còn thu thập thông tin thị trường, theo lời các nhân viên cao cấp trong bộ phận thương mại. Các thông tin này giúp Koch trong công cuộc tìm kiếm các thương vụ mới và các công ty có tiềm năng để mua lại.
Ví dụ, theo một giao dịch viên có thâm niên, bộ phận thương mại của Koch bắt đầu mua bán các sản phẩm hóa dầu được gọi là olefins vào cuối những năm 90 bởi vì thị trường khá im ắng và phù hợp để mua vào. Vào năm 2007, Koch mua lại một số nhà máy sản xuất olefin từ tập đoàn Huntsman Corp., một phần trong thương vụ 700 triệu USD. Thương vụ này, theo một khía cạnh nào đó, dựa khá nhiều vào phân tích thị trường olefin thực hiện bởi các giao dịch viên.
Mỗi bộ phận chính yếu của Koch cập nhật cho Charles và các lãnh đạo khác mỗi quý tình hình kinh doanh của bộ phận mình. Các cuộc họp này hoàn toàn không hề chiếu lệ. Mỗi đơn vị kinh doanh đều có khả năng bị bán đi bất kỳ lúc nào, và các trưởng bộ phận luôn biết điều đó. Họ không dám xào nấu hay giấu diếm những sai sót khi báo cáo cho Charles Koch. Ông ta có thể vạch mặt họ chỉ với một câu hỏi đơn giản.
“Rất căng thẳng”, Jeremy Jones, phó chủ tịch quỹ đầu tư mạo hiểm nội bộ tập đoàn Koch từ năm 2007 đến năm 2009, người làm việc thường xuyên với nhóm phát triển trung ương của tập đoàn Koch. Jones đã nhận ra sự căng thẳng này khi ông đề xuất đầu tư vào lĩnh vực nhiêu liệu sinh học với Charles.
Sau khi Jones trình bày, Charles bắt đầu “quay” ông bằng một kiểu cách logic. Liệu Jones đã cân nhắc đến một thực tế là ethanol chỉ cấu thành 66.7% năng lượng trong xăng? Liệu những dự đoán của Jones có tính đến quy định của chính phủ về sử dụng ethanol có thể thay đổi? Jones nhớ lại. “Phân tích của tôi dựa trên những giả định sai lầm. Ông ta đã nhanh chóng nhận ra. Nếu như bạn không biết điều gì, tốt hơn hết hãy nói với ông ta là bạn không biết. Đừng cố vòng vo”.
(Còn tiếp)