Hiệp định RCEP tạo cơ hội phát triển các chuỗi cung ứng mới trong khu vực

15/11/2020 21:40 PM | Kinh doanh

Trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao ASEAN 37, tại Hội nghị Thượng đỉnh Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) lần thứ 4 diễn ra sáng 15/11 theo hình thức trực tuyến, các nhà lãnh đạo châu Á - Thái Bình Dương đại diện cho các quốc gia đã thống nhất thông qua và đi đến ký kết Hiệp định RCEP.

Bên lề lễ ký kết Hiệp định RCEP, phóng viên TTXVN đã phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh về ý nghĩa cũng như những tác động của Hiệp định và cam kết của Việt Nam đối với Hiệp định này.

Xin Bộ trưởng đánh giá sơ bộ Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) có ý nghĩa và tác động như thế nào đối với Việt Nam và ASEAN?

Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 bùng phát làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực, gây ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu cùng với xu hướng bảo hộ mậu dịch đang nổi lên, việc ký kết Hiệp định RCEP đánh dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế của Việt Nam và tất cả các nước tham gia đàm phán Hiệp định.

Hiệp định RCEP khi được 15 thành viên thực thi sẽ tạo nên một thị trường lớn với quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm khoảng 30% dân số thế giới, với GDP xấp xỉ 26,2 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu và trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới.

Với các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hài hòa hóa quy tắc xuất xứ giữa tất cả các bên tham gia cũng như tăng cường các biện pháp tạo thuận lợi thương mại. Vì vậy, việc thiết lập Hiệp định này sẽ tạo cơ hội để phát triển các chuỗi cung ứng mới trong khu vực.

Hiệp định RCEP sẽ giúp thiết lập thị trường xuất khẩu ổn định lâu dài cho Việt Nam và các nước ASEAN. Trước tình hình thế giới đầy biến động gây ra những xáo trộn về chuỗi cung ứng trong những năm gần đây, việc hình thành một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới theo Hiệp định RCEP tạo ra một thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn cho Việt Nam, qua đó góp phần thực hiện chính sách xây dựng nền sản xuất định hướng xuất khẩu.

Việc thực hiện Hiệp định RCEP cũng tạo nên một khuôn khổ ràng buộc pháp lý trong khu vực về chính sách thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, giải quyết tranh chấp..., góp phần giúp môi trường thương mại công bằng trong khu vực.

Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, việc chủ động cải cách, đơn gian hóa thủ tục hành chính, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng sẽ đem lại giá trị cho nền kinh tế Việt Nam cao hơn so với các lợi ích mở cửa thị trường trực tiếp của các nước.

Đặc biệt, với các khung khổ hợp tác mới được đưa ra trong Hiệp định RCEP cùng với các FTA trước đây, Việt Nam cùng một số nước ASEAN đang trở thành điểm đến đáng tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế. Các lợi ích này thường mang ý nghĩa lâu dài cho nền kinh tế.

Cuối cùng, ý nghĩa quan trọng nhất là việc kết thúc đàm phán và ký kết Hiệp định RCEP góp phần đề cao vai trò trung tâm của ASEAN trong quá trình định hình cấu trúc khu vực do RCEP là liên kết kinh tế khu vực có quy mô lớn nhất mà ASEAN đóng vai trò dẫn dắt cho đến nay. Hiệp định RCEP là sáng kiến đầu tiên do ASEAN đề xuất và được các nước đối tác ủng hộ.

Những năm gần đây tất cả các nước với vai trò Chủ tịch ASEAN đều đưa ra mục tiêu kết thúc đàm phán và ký kết Hiệp định. Kế thừa kết quả từ những năm trước, Việt Nam và các nước ASEAN đã thuyết phục được các nước đối tác tham gia đồng thuận chung.

Điều này cho thấy dù từng nước có quy mô kinh tế không lớn, nhưng nếu đoàn kết và có tiếng nói chung thì vẫn có thể trở thành một động lực thúc đẩy hợp tác trong khu vực.

Theo đánh giá của các Tổ chức quốc tế, đến nay có hai cơ chế có thể trở thành thiết kế cho mô hình hợp tác của toàn bộ khu vực châu Á – Thái Bình Dương: đó là Hiệp định RCEP và Hiệp định CPTPP. Vì vậy, rất vinh dự cho Việt Nam là cả hai cơ chế này đều được quyết định trong năm Việt Nam là Chủ tịch ASEAN và APEC.

Có thể nói, Việt Nam đã đóng góp tiếng nói của mình vào việc định hình cho các cơ chế hợp tác mới cũng như luật chơi của khu vực, tăng cường vị thế của đất nước.

Bộ trưởng có thể chia sẻ về những thách thức và yêu cầu đặt ra cho Việt Nam sau khi Hiệp định được ký kết?

Cơ hội mà RCEP mang lại cũng sẽ song hành với những khó khăn và thách thức. Trước hết, Hiệp định RCEP có thể mang đến sức ép cạnh tranh đối với hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam.

Đặc điểm các nền kinh tế trong khu vực RCEP cho thấy nhiều đối tác có cơ cấu sản phẩm tương tự và năng lực cạnh tranh mạnh hơn Việt Nam, trong khi chất lượng và hàm lượng giá trị gia tăng của hầu hết sản phẩm của Việt Nam còn khiêm tốn. Vì vậy, khi Hiệp định RCEP có hiệu lực thì sức ép cạnh tranh sẽ gia tăng.

Ngoài ra, đầu vào sản xuất của Việt Nam vẫn còn phụ thuộc nhất định vào các nguồn nhập khẩu, đặc biệt khả năng cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị khu vực cũng như mức độ tham gia cung cấp thương mại dịch vụ toàn cầu của Việt Nam còn hạn chế.

Tuy nhiên, kinh nghiệm hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua cho thấy khả năng của Việt Nam tham gia vào các chuỗi giá trị mới thiết lập trong khu vực ngày càng tăng lên cùng với việc Việt Nam đổi mới mạnh mẽ về thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và cải thiện môi trường đầu tư.

Cam kết của Việt Nam trong Hiệp định RCEP như thế nào và có khác biệt gì so với các Hiệp định CPTPP, EVFTA, thưa Bộ trưởng?

Các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định RCEP được xây dựng trên cơ sở các cam kết của Việt Nam trong WTO và các Hiệp định FTA giữa ASEAN với các đối tác ngoại khối mà Việt Nam đã cùng ASEAN tham gia, trong khi Hiệp định CPTPP và EVFTA là các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới. Hiệp định RCEP được xây dựng phù hợp với trình độ phát triển của tất cả các nước tham gia, đặc biệt phù hợp với cả một số nước ASEAN vẫn còn là nước kém phát triển.

Do vậy, mặc dù không gian kinh tế rộng hơn, dân số lớn hơn, nhưng Hiệp định RCEP cũng có nhiều linh hoạt cho các nước tham gia. Các nước tham gia RCEP cũng xác định đây là bước đi ban đầu, hướng đến các mức độ hợp tác cao hơn khi các nước đã sẵn sàng.

Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán Hiệp định RCEP, các nước cũng đã nỗ lực và thống nhất được một số lĩnh vực mới chưa được cam kết trong các hiệp định FTA của ASEAN trước kia như: thương mại điện tử, chính sách cạnh tranh, mua sắm của Chính phủ, với nội dung và mức cam kết phù hợp với pháp luật hiện hành của Việt Nam và các nước ASEAN khác.

Các nội dung mới này đã có trong các FTA thế hệ mới như Hiệp định Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), hay Hiệp định Thương mại tự do song phương giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) nhưng được đề cập ở mức độ cao hơn trong các FTA thế hệ mới này.

Nhìn chung, Việt Nam đạt được mức độ cam kết hài hòa trong Hiệp định RCEP, có cao hơn các FTA ASEAN+ hiện có nhưng thấp hơn các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia. Nội dung Hiệp định RCEP ngay sau đây sẽ được công bố để các doanh nghiệp nghiệp và các đối tượng khác có quan tâm nghiên cứu.

Theo Bộ trưởng, liệu việc Việt Nam ký kết Hiệp định RCEP có làm tăng nguy cơ nhập siêu từ một số nước thành viên Hiệp định RCEP không?

Trong suốt quá trình đàm phán Hiệp định RCEP, Việt Nam đều tham vấn chặt chẽ các bộ ngành liên quan và doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu kết quả đàm phán phải đảm bảo lợi ích cao nhất của Việt Nam.

Thực tế, Việt Nam đã tham gia với các nước ASEAN và 5 nước đối tác trong RCEP theo các hiệp định FTA giữa nội khối ASEAN, cụ thể là hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA), và các FTA giữa ASEAN với từng đối tác trong số 5 đối tác trên (gọi là các hiệp định FTA ASEAN+1).

Vì vậy, quá trình tự do hoá thuế quan với các nước ASEAN đã được thực hiện trong suốt hơn 20 năm qua và với 5 nước đối tác trên là trong vòng khoảng 15 năm qua. Việc thực hiện hiệp định RCEP sau khi được thông qua sẽ không tạo ra cú sốc về giảm thuế quan đối với Việt Nam.

Hơn nữa, hiệp định RCEP về cơ bản là thỏa thuận mang tính kết nối các cam kết đã có của ASEAN với 5 đối tác với ASEAN trong một Hiệp định FTA.

Chẳng hạn như doanh nghiệp chỉ phải sử dụng một quy tắc xuất xứ thay vì năm bộ quy tắc xuất xứ riêng ở các FTA trước đây. Tương tự, các quy tắc về thủ tục hải quan và tạo thuận lợi thương mại cũng được thống nhất và tăng cường.

Do đó, về cơ bản sẽ không tạo ra cam kết mở cửa thị trường hay áp lực cạnh tranh mới mà chủ yếu hướng đến tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Vì vậy, Việt Nam không quá lo ngại về khả năng tăng nhập siêu. Không những thế, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ nên sẽ có nhiều cơ hội tham gia các chuỗi cung ứng mới do Hiệp định RCEP tạo ra nếu có thể khai tác triệt để lợi ích do Hiệp định này mang lại.

Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!

Uyên Hương-Mai Ly

Từ khóa:  hiệp định , RCEP
Cùng chuyên mục
XEM