Chuyên gia đề xuất Gói hỗ trợ bổ sung cấp bách, thiết thực cho người dân và doanh nghiệp lúc này
Tổng giá trị các gói hỗ trợ bổ sung trị giá khoảng gần 40 ngàn tỷ đồng (0,62% GDP năm 2021), chưa kể giá trị hỗ trợ còn gia tăng khi điều chỉnh, gia hạn các chính sách hiện hành.
Trong bối cảnh diễn biến dịch Covid-19 rất phức tạp trên thế giới và tại Việt Nam, dù trong tầm kiểm soát, nhưng dịch bệnh đặt ra nhiều rủi ro, thách thức mới hơn, lớn hơn, đòi hỏi quyết sách mạnh mẽ, quyết liệt và phù hợp hơn. Quốc hội, Chính phủ đã có nhiều chính sách, giải pháp mạnh nhằm kiểm soát dịch bệnh, đẩy nhanh tiến trình vaccine và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, trong bối cảnh nhiều tỉnh, thành phố thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16. Tuy nhiên, việc thực thi vẫn còn hạn chế, khó khăn mới xuất hiện, đòi hỏi thực thi khẩn trương hơn và mở rộng, bổ sung các gói, giải pháp hỗ trợ kịp thời.
Theo đó, ngoài ưu tiên số một hiện nay là kiểm soát dịch bệnh và đẩy nhanh chiến lược vaccine; TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV đề xuất 7 gói, giải pháp hỗ trợ cấp bách cho người dân và doanh nghiệp lúc này như sau:
Một là, Chính phủ chỉ đạo khẩn trương rà soát, đánh giá sơ bộ kết quả thực hiện các gói hỗ trợ đến thời điểm hiện tại và tiến hành tháo gỡ ngay những vướng mắc trong quá trình thực hiện. Thí dụ, Nghị định 52/2021/NĐ-CP ngày 19/4/2021 đã hết hiệu lực nộp hồ sơ xin giãn hoãn thuế và tiền thuê đất từ ngày 31/7/2021; vậy vấn đề gia hạn sẽ như thế nào?. Thông tư 03 của NHNN về giãn hoãn nợ, cơ cấu lại nợ có hiệu lực từ ngày 17/5/2021 cũng cần xem xét sớm sửa đổi ngay sau khi NHNN hoàn tất lấy ý kiến rộng rãi.
Đặc biệt là Nghị quyết 68/NQ-CP ngày 1/7/2021 về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 (quy mô 26 nghìn tỷ đồng). Tính đến ngày 12/8/2021, theo thông tin từ Bộ LĐ-TB-XH, tổng số lao động đã được hỗ trợ là trên 13 triệu lượt người với tổng số tiền là gần 6.000 tỷ đồng (23%), trong đó chủ yếu là nhóm chính sách bảo hiểm hỗ trợ 12 triệu lao động với số tiền khoảng 4.400 tỷ đồng; chính sách hỗ trợ tiền mặt mới phát cho hơn 1 triệu lao động với số tiền là 1.300 tỷ đồng; chính sách cho vay trả lương và phục hồi sản xuất đã hỗ trợ cho hơn 42.000 lao động với số tiền là trên 145 tỷ đồng…v.v. Rõ ràng là, khâu thực thi còn chậm, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh và thực hiện giãn cách xã hội quyết liệt như hiện nay? và cần có thời hạn thực hiện cụ thể để đẩy nhanh hỗ trợ quý giá này.
Các chính sách này cùng với các gói giảm phí, lệ phí khác nên được tính toán để gia hạn, ít nhất là đến khi Việt Nam đạt miễn dịch cộng đồng (hết quý 2/2021). Đồng thời, nên xem xét điều chỉnh ngân sách hỗ trợ từ cấu phần này sang cấu phần khác thiết thực hơn.
Hai là, Chính phủ xem xét sớm mở rộng đối tượng hỗ trợ tới tất cả lao động phi chính thức (lao động tự do) với mức trợ cấp 1 triệu đồng/người với quy mô 29.300 tỷ đồng, (tổng số lao động năm 2020 là 54,6 triệu người, trong đó có khoảng 29,3 triệu người (53,7%) là lao động tự do), ngoài phần hỗ trợ riêng của các địa phương theo Nghị quyết 68. Theo số liệu thu thập của chúng tôi, đến nay, các địa phương mới hỗ trợ lao động tự do với số tiền khoảng gần 2.370 tỷ đồng, quá nhỏ bé so với nhu cầu cấp thiết. Trong bối cảnh dịch bệnh, cần tăng cường ứng dụng CNTT trong khâu đăng ký, thẩm định và chuyển tiền như chúng tôi đã kiến nghị. (Chúng tôi sẽ phân tích, gợi ý cách làm nhanh hơn, trúng hơn trong một bài viết khác).
Ba là, với gói hỗ trợ tiền điện; nên giảm mạnh hơn, giảm tiếp tiền điện cho người dân và doanh nghiệp, tương đương đợt 1 năm 2020 (khoảng 9.300 tỷ đồng); theo đó, EVN có thể xem xét mở rộng đối tượng được giảm, với ngân sách giảm bổ sung khoảng 6.800 tỷ đồng.
Bốn là, với gói hỗ trợ viễn thông, hiện được công bố có giá trị ước khoảng 10.000 tỷ đồng, nhưng chủ yếu là gia tăng quyền lợi, ưu đãi cho khách hàng, chứ không giảm trực tiếp vào giá cước, nên chỉ có tác động đến một số đối tượng nhất định (như người dùng dịch vụ trả trước, còn những ai đang dùng gói ưu đãi sẽ không có tác dụng nhiều bởi nhiều người chưa dùng hết khuyến mại…). Theo đó, cách hỗ trợ tốt nhất là nên giảm giá cước 20-30% trong khoảng 3 tháng (quý 3), vì như vậy tính vào chi phí của doanh nghiệp và việc hỗ trợ thiết thực hơn.
Năm là, cần quyết tâm, khẩn trương tháo gỡ những ách tắc, đứt gãy chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất cho người dân và doanh nghiệp. Với người dân, không để hiện tượng đứt gãy chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ thiết yếu xảy ra (vừa gây khó khăn cho người dân, vừa bị tăng giá do vận chuyển, đi lại khó khăn; đây cũng là thực tế đã xảy ra ở một số địa phương giãn cách xã hội). Theo đó, cần nhất quán hơn về cách thức hoạt động của các chốt kiểm soát, của các shippers ở những địa phương giãn cách xã hội (tránh hiện tượng mỗi nơi, một kiểu như hiện nay). Với doanh nghiệp, mô hình "hai tại chỗ, một xanh" (ăn và làm việc tại chỗ, ở một chỗ khác an toàn, khi cần có thể là nơi cách ly luôn hoặc bố trí nơi cách ly khác do doanh nghiệp thu xếp) tỏ ra khá hiệu quả, phù hợp hơn cả và đang được Thái Lan áp dụng theo chương trình có tên gọi là "Thử nghiệm Nhà máy – Factory Sanbox". Tất cả công nhân sẽ được xét nghiệm 1 lần/tuần. Sau đó, những người dương tính sẽ bị cách ly và/hoặc chữa trị, còn nhóm âm tính được tiêm vaccine….v.v. Cùng với đó, lực lượng sản xuất, tham gia chuỗi cung ứng này cần ưu tiên sớm tiêm vaccine.
Sáu là, ngoài gói hỗ trợ 20 ngàn tỷ đồng mà Bộ Tài chính đang đề xuất; cần tăng khả năng tiếp cận vốn hỗ trợ thanh khoản cho các doanh nghiệp. Theo đó, sớm tháo gỡ vướng mắc đối với phương án đầu tư mua cổ phần của SCIC tại Vietnam Airlines cũng như các hãng hàng không tư nhân (theo hướng cho phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận, có ưu đãi đối với hãng hàng không đang bị thua lỗ nhưng triển vọng phục hồi trung – dài hạn là tích cực). Tăng khả năng tiếp cận vốn, hỗ trợ thanh khoản đối với DNNVV và có thể bao gồm các hãng hàng không tư nhân nêu trên (dưới dạng hỗ trợ lãi suất có trọng tâm, trọng điểm với gói tín dụng quy mô khoảng 60 nghìn tỷ đồng). Giá trị hỗ trợ lãi suất thực tế ước tính khoảng 2.500 tỷ đồng. Một số điều kiện cơ bản như lãi suất cho vay khoảng 4%/năm (tức là mức hỗ trợ lãi suất khoảng 4%/năm so với lãi suất thị trưởng). Việc cho vay thực hiện qua NHTM và Quỹ phát triển DNNVV (có thể cùng với bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV). Thời hạn cho vay khoảng 1 năm, nguồn vốn cấp bù lãi suất từ NSNN; tập trung vào các lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh như vận tải, du lịch, lưu trú – ăn uống, y tế, giáo dục – đào tạo…v.v.
Tổng giá trị các gói hỗ trợ bổ sung nêu trên khoảng gần 40 ngàn tỷ đồng (0,62% GDP năm 2021), chưa kể giá trị hỗ trợ còn gia tăng khi điều chỉnh, gia hạn các chính sách hiện hành.
Bảy là, sớm xây dựng chiến lược phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh "bình thường mới" và sau dịch Covid-19 nhằm chủ động tận dụng cơ hội phục hồi mạnh cũng như kiểm soát rủi ro phát sinh (giá cả tăng, lạm phát tăng, đứt gãy chuỗi cung ứng, chuỗi lao động….) nhằm đạt được mục tiêu kế hoạch phát triển KT-XH giai đoạn 2021-2025 và dài hơi hơn.