Báo động 1,5 triệu nam giới có thể không lấy được vợ: Việt Nam dự tính Việt Nam chi 125.000 tỷ và siết phạt lựa chọn giới tính thai nhi
Chính phủ đặt mục tiêu đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức dưới 109 bé trai/100 bé gái vào năm 2030, trong bối cảnh Việt Nam đối mặt nguy cơ dư thừa 1,5 triệu nam giới sau một thập kỷ nữa.
Mục tiêu giảm chênh lệch giới tính khi sinh này được đặt trong Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035. Theo đó, Chính phủ đề xuất chương trình 125.000 tỷ đồng nâng cao sức khỏe, chất lượng dân số, hiện đại hóa y tế cơ sở, mở rộng tầm soát bệnh bẩm sinh và giảm chênh lệch giới tính khi sinh.
Ảnh minh họa
Riêng về giới tính, chương trình đặt mục tiêu giảm tỷ số giới tính khi sinh xuống dưới 109 bé trai/100 bé gái vào năm 2030 và dưới 107 vào 2035. Động thái này diễn ra khi Bộ Y tế mới đây cảnh báo về kịch bản "giảm sinh, thừa nam thiếu nữ". Nếu đà mất cân bằng hiện tại không được kìm hãm, Việt Nam sẽ dư thừa khoảng 1,5 triệu nam giới độ tuổi kết hôn (15-49 tuổi) vào năm 2034 và con số này sẽ tăng lên 1,8 triệu vào năm 2059. Giới chuyên gia lo ngại tình trạng này sẽ phá vỡ cấu trúc gia đình, khiến nam giới khó tìm bạn đời, dẫn đến hệ lụy kết hôn muộn hoặc sống độc thân vĩnh viễn.
Thực tế năm 2024 cho thấy bức tranh dân số đang bị méo mó nghiêm trọng với tỷ lệ 111,4 bé trai trên 100 bé gái, vượt xa quy luật sinh học tự nhiên (104-106). Giáo sư Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện Dân số và các vấn đề xã hội, đánh giá việc đưa tỷ số này về ngưỡng mục tiêu là thách thức rất lớn. Ông dẫn chứng sau 7 năm nỗ lực (2017-2024), Việt Nam chỉ kéo giảm được 0,7 điểm phần trăm, cho thấy tốc độ thay đổi rất chậm.
Sự chênh lệch phân bố không đồng đều, tập trung đậm đặc tại miền Bắc. Báo cáo từ Cục Thống kê chỉ ra vùng Đồng bằng sông Hồng là "vùng trũng" về mất cân bằng khi 10 trong 11 tỉnh có tỷ lệ bé trai trên 110. Cá biệt, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hà Nội ghi nhận mức cao kỷ lục, lần lượt là 118,5 và 118,1. Ngược lại, các tỉnh phía Nam vẫn duy trì được mức cân bằng sinh học, dao động từ 105 đến 108.
Lý giải nguyên nhân, ông Mai Xuân Phương, nguyên Phó vụ trưởng Truyền thông - Giáo dục (Cục Dân số), nhận định tư tưởng trọng nam khinh nữ và Nho giáo ăn sâu hàng nghìn năm vẫn chi phối mạnh mẽ. Trong bối cảnh mức sinh giảm sâu kỷ lục xuống 1,91 con/phụ nữ, nhiều gia đình sinh ít con nhưng áp lực "phải có con trai nối dõi" khiến họ tìm mọi cách can thiệp y khoa. Việc lạm dụng thành tựu chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm gen để lựa chọn giới tính thai nhi đã đẩy tỷ lệ nạo phá thai vì giới tính tăng cao.
Để hiện thực hóa mục tiêu năm 2030, cơ quan quản lý đang tính đến các biện pháp mạnh tay hơn về pháp lý kết hợp ưu đãi kinh tế. Trong dự thảo Luật Dân số, Bộ Y tế đề xuất tước chứng chỉ hành nghề của bác sĩ tiết lộ giới tính thai nhi, đồng thời nâng mức phạt hành chính với hành vi lựa chọn giới tính từ 30 triệu lên tối đa 100 triệu đồng.
Song song với chế tài xử phạt, chính sách khuyến khích sinh sản cũng được chú trọng. Cơ quan chức năng đề xuất hỗ trợ tài chính hoặc hiện vật cho các gia đình sinh con một bề là gái, đặc biệt tại vùng nông thôn và nhóm dễ tổn thương. Trước khi có chính sách cấp quốc gia, một số địa phương như Hải Phòng, Hậu Giang, Bạc Liêu đã tiên phong áp dụng cơ chế thưởng tiền cho các gia đình sinh hai con gái, bước đầu tạo hiệu ứng tích cực.
Theo ông Phương, để giảm lệch giới tính bền vững, Việt Nam cần kiềng ba chân là khung pháp lý nghiêm minh, hệ thống giám sát y tế chặt chẽ và chiến dịch truyền thông đủ mạnh để thay đổi nhận thức xã hội về giá trị của trẻ em gái.
"Giảm lệch giới tính khi sinh chỉ có thể thành công khi pháp luật nghiêm minh, truyền thông đủ mạnh và mỗi gia đình thấy rằng con trai hay con gái đều mang giá trị như nhau đối với tương lai đất nước", ông Phương nói, thêm rằng để đạt mục tiêu này, cần triển khai đồng bộ một gói giải pháp đã được nghiên cứu và kiểm chứng trên thực tiễn.
Trong đó, hoàn thiện khung pháp lý, giám sát chặt dịch vụ siêu âm và xét nghiệm liên quan đến giới tính thai nhi là trụ cột quan trọng. Hệ thống giám sát ở cấp cơ sở, với cảnh báo sớm tại những nơi có tỷ lệ mất cân bằng cao, sẽ giúp can thiệp kịp thời và hiệu quả. Song song, truyền thông chuyển đổi hành vi phải được thực hiện sâu rộng và bền bỉ, nhằm làm thay đổi nhận thức về bình đẳng giới và nâng cao giá trị của trẻ em gái.
Chính sách hỗ trợ gia đình, nhất là ở vùng nông thôn và nhóm dễ tổn thương, sẽ giúp giảm các áp lực kinh tế - xã hội vốn là gốc rễ của tình trạng lựa chọn giới tính trước sinh. Với nguồn lực tài chính lớn, kinh nghiệm từ các mô hình địa phương thành công và sự cam kết chính trị mạnh mẽ, Việt Nam có đầy đủ điều kiện để tiến tới cân bằng giới tính khi sinh trong thập kỷ tới, theo ông Phương.
