Từ nghi án Asanzo nhập hàng nước khác gắn nhãn Việt Nam, nhìn nhận “Made in Vietnam” như thế nào?

25/06/2019 10:20 AM | Xã hội

Chưa có một thước đo rõ ràng để xác định quá trình sản xuất thế nào, hàm lượng giá trị bao nhiêu thì doanh nghiệp có thể tự tin dán nhãn "made in Vietnam" lên sản phẩm…

Trước việc một số cơ quan báo chí có nhiều bài báo phản ánh việc CTCP Điện tử Asanzo Việt Nam nhập khẩu sản phẩm sản xuất tại nước khác nhưng gắn nhãn xuất xứ Việt Nam để bán ra thị trường, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính – Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo 389 quốc gia chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan khẩn trương kiểm tra, xác minh thông tin.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính, Bộ Công Thương khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả trước ngày 30/7/2019.

Trước đó, báo Tuổi Trẻ đăng tải những bài viết với thông tin Asanzo nhập linh kiện rồi xé nhãn Trung Quốc và dán tem nhãn “made in Vietnam”. Trong phản hồi mới được đưa ra, Asanzo cho biết hãng "tự tin sản phẩm mang thương hiệu Asanzo ghi xuất xứ Việt Nam và công nghệ Nhật Bản là có căn cứ, phù hợp với thông lệ thị trường và không trái với pháp luật Việt Nam”.

Từng sản phẩm khác nhau cần quy định cụ thể

Từ câu chuyện của Asanzo, trao đổi với BizLIVE, ông Trương Thanh Đức, Chủ tịch HĐTV Công ty Luật Basico cho biết, xuất xứ hàng hoá định nghĩa cụ thể tại Điều 3.14 của Luật Thương mại năm 2015 với 2 ý là nước hoặc vùng lãnh thổ sản xuất toàn bộ hoặc nơi thực hiện công đoạn chế biến cơ bản mà không đề cập đến lắp ráp.

Theo ông Đức, chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hoá trong trường hợp có nhiều nước hoặc lãnh thổ tham gia quá trình sản xuất, ví dụ 99% hàng Trung Quốc và thêm một vài thiết bị của Nhật, Hàn, Việt Nam nói đấy là nhiều nước nhưng quan trọng phải ở mức độ “chế biến cơ bản”, việc lắp ráp qua loa và nhận là xuất xứ của Việt Nam thì không được.

Ông Đức cũng đề xuất việc cần quy định thế nào là sản xuất, lắp ráp trường hợp nào mới xuất xứ nguồn gốc tỷ lệ bao nhiêu, không nói chung chung. Tiêu chí hàng “made in Vietnam” đáp ứng 2 tiêu chí hàm lượng giá trị phải quá 50%, thứ 2 không cần nhiều như thế nhưng điều kiện là không có sản phẩm tương tự của nhà sản xuất khác mà phải tập hợp nhiều thứ, lắp ráp tạo ra một sản phẩm mới, không thể y chang như một sản phẩm đã hoàn chỉnh hay gần hoàn chỉnh. Từng sản phẩm khác nhau cần có quy định cụ thể, ô tô sẽ khác một cái xe đạp, hay một chiếc ti vi.

Chưa có quy định rõ ràng thế nào là “made in Vietnam”

Về vấn đề này, một chuyên gia kinh tế cho biết, trường hợp ghi nhãn “made in Vietnam” trong khi hàm lượng sản xuất ở Việt Nam rất ít (như trong phóng sự của báo Tuổi Trẻ nêu về Asanzo) thì phải lên án. Nhưng cái sai này một phần có thể đổ lỗi cho việc chưa có quy định rõ ràng thế nào là "Made in Vietnam".

Nghị định số 43/2017/NĐ-CP quy định mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa tại Việt Nam hoặc nhập khẩu hàng hóa đều phải ghi nhãn cho hàng hóa (trừ một số trường hợp đặc biệt).

Điều 10 Nghị định 43 ghi rõ nhãn hàng hóa bắt buộc phải thể hiện các nội dung gồm: tên hàng hóa; tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa; xuất xứ hàng hóa và các nội dung khác tùy theo theo tính chất của mỗi loại hàng hóa.

Điều 15 Nghị định 43 yêu cầu tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu tự xác định và tự ghi xuất xứ đối với hàng hóa của mình, bảo đảm trung thực, chính xác, tuân thủ các quy định của pháp luật về xuất xứ hàng hóa hoặc các hiệp định mà Việt Nam đã tham gia hoặc ký kết.

Tuy nhiên, xác định xuất xứ hàng hóa theo nguyên tắc nào, quy tắc nào thì đến nay chưa có hướng dẫn rõ ràng.

Vị chuyên gia cũng cho biết, Việt Nam đã tham gia rất nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA), đồng thời ban hành nhiều quy định (ở cấp Thông tư của Bộ Công Thương) về việc xác định xuất xứ, nhưng các quy định này đều là xuất xứ gộp, bao gồm cả Việt Nam và các nước khác.

Chẳng hạn, trong ASEAN nếu đạt được hàm lượng giá trị khu vực 40% trở lên thì được coi là có xuất xứ ASEAN. Trong 40% này có thể là 20% của Thái Lan, 10% của Malaysia, 5% của Philippines và chỉ có 5% của Việt Nam. Như vậy, việc đạt tiêu chí xuất xứ ASEAN (được cấp C/O Mẫu D) chưa khẳng định hàng hóa đó có xuất xứ Việt Nam hay không.

"Đã có một Thông tư 05/2018/TT-BCT quy định thế nào được coi là xuất xứ Việt Nam. Nhưng cũng giống như các thông tư ở trên, thông tư này chỉ áp dụng cho hàng hóa xuất khẩu ra khỏi Việt Nam. Chưa có một quy định nào lấy các tiêu chí của Thông tư 05 để coi đó là "hàng Việt Nam" hay hàng "sản xuất tại Việt Nam.

Nói cách khác, chúng ta chưa có một thước đo rõ ràng để xác định quá trình sản xuất thế nào, hàm lượng giá trị bao nhiêu thì doanh nghiệp có thể tự tin dán nhãn "made in Vietnam" lên sản phẩm", vị này nêu quan điểm.

Về vấn đề này, Bộ Công Thương từng báo cáo Thủ tướng và hiện nay đang xây dựng dự thảo Thông tư quy định hàng hóa thế nào thì được gắn nhãn "Sản xuất tại Việt Nam/Made in Viet Nam".

“Do chưa có quy định rõ ràng về tỷ lệ sản xuất, chế biến ở Việt Nam như thế nào, chiếm bao nhiêu phần trăm trong giá trị sản phẩm nên doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý nhà nước sẽ rất lúng túng khi không biết phân định một sản phẩm có phải là "hàng Việt Nam" hay "Sản xuất tại Việt Nam". Còn những doanh nghiệp gian dối thì có thể lợi dụng sự chưa rõ ràng đó để tự khoác lên mình chiếc áo hàng Việt để làm các chiêu trò marketing”, vị này nói.

THEO NGUYỄN THẢO

Cùng chuyên mục
XEM