Dân châu Á còng lưng trả nợ: Đời cha ăn mặn, đời con khát nước?

23/04/2015 13:30 PM |

Một nửa tổng số nợ trên toàn cầu trong khoảng 7 năm qua đến từ những nền kinh tế mới nổi và đa phần là ở châu Á.

Nội dung nổi bật:

- Trong suốt giai đoạn khủng hoảng kinh tế trước đây, châu Á phải vay rất nhiều tiền để duy trì tốc độ phát triển.

- Tuy nhiên, ngay cả khi kinh tế đã dần hồi phục thì châu Á vẫn giữ thói quen tiếp tục vay thêm tiền khiến gánh nặng nợ ngày một tăng. Kết quả là hiện tại, châu Á đang phải gồng mình trả nợ và không dám vay thêm tiền khiến tốc độ phát triển chậm chạp, gây ảnh hưởng tới triển vọng kinh tế toàn cầu.


Các quốc gia châu Á đã vay rất nhiều tiền để duy trì tốc độ phát triển trong suốt giai đoạn khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, họ vẫn không thể xóa bỏ “thói quen xấu” này ngay cả khi kinh tế toàn cầu đã phục hồi trở lại. Hậu quả là hiện tại, châu Á đang cảm nhận thấy rõ những hệ lụy.

Tốc độ phát triển đang chậm đi một cách nhanh chóng trên toàn châu lục khi người tiêu dùng và cả các doanh nghiệp đều tập trung vào việc trả nợ. Các ngân hàng trung ương liên tục giảm lãi suất, đẩy giá trị đồng tiền xuống thấp nhưng nền kinh tế vẫn không thể tăng trưởng cao hơn được. Nhu cầu vẫn ở mức yếu, lương trì trệ và tốc độ phát triển chậm chạp khiến việc đi vay bây giờ thậm chí còn khó hơn trả nợ.

Điều này có thể gây tác động đáng kể đến triển vọng kinh tế của khu vực, từ đó kéo tụt tốc độ phát triển toàn cầu.

Vấn đề ở đây là người châu Á đang phải gánh quá nhiều nợ. Thậm chí ngay cả khi ngân hàng trung ương cắt giảm tỷ lệ lãi suất xuống còn 0 thì mọi người cũng sẽ không đi vay thêm tiền”, Paul Sheard – kinh tế trưởng tại Ratings Services của Standard & Poor nói.

Kim Hee-do – nhân viên văn phòng 35 tuổi tại Seoul là một trong số những người từ chối vay tiền mặc dù ngân hàng trung ương Hàn Quốc đã 3 lần cắt giảm tỷ lệ lãi suất trong vài tháng gần đây. Vợ của Kim thì muốn đổi chiếc xe ô tô mới khi thấy lãi suất vay chỉ còn 1,75% nhưng anh lại ngăn cản vợ làm điều này. “Tôi có thể thuyết phục được bản thân làm vậy. Nhưng tôi cảm thấy không thể tiêu nhiều hơn nữa và lo lắng cho tương lai của chính mình”.

Một nửa tổng số nợ trên toàn cầu trong khoảng 7 năm qua đến từ những nền kinh tế mới nổi và đa phần là ở châu Á. Riêng Trung Quốc chiếm khoảng 1/3 sự gia tăng nợ trên toàn cầu kể từ năm 2007 theo nghiên cứu của McKinsey.

Mức nợ tại hàng loạt quốc gia châu Á như Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan và Hàn Quốc đang cao hơn so với trước khủng hoảng tài chính châu Á vào những năm 1990. Một vài quốc gia như Hàn Quốc, Malaysia và Úc còn có tỷ lệ nợ/thu nhập cao hơn cả Mỹ trong thời kỳ trước khủng hoảng tài chính.

Vấn đề nằm ở chỗ, dù đã thận trọng hơn với các khoản nợ sau tổn thất từ khủng hoảng tài chính nhưng nhiều quốc gia châu Á vẫn muốn vay thêm tiền sau khi khủng hoảng đã qua đi. “Châu Á đã trở nên ‘nghiện’ việc đi vay. Nó khiến các nhà tạo lập chính sách cảm thấy hài lòng”, Frederic Neumann – đồng chủ tịch công ty nghiên cứu HSBC Holdings nói.

Có 1 yếu tố chủ chốt khiến châu Á rơi vào tình trạng này. Khi Mỹ hạ lãi suất, hàng loạt các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc đã “hào hứng” trở thành con nợ của kho bạc Mỹ. Ngày nay, chính sách tiền tệ siêu nới lỏng tại Mỹ, châu Âu và Nhật Bản đã gây ra cuộc đổ bộ của dòng tiền vào châu Á. Lãi suất giảm cho phép chính phủ, các công ty và cá nhân vay nhiều hơn trước tại mức lãi suất thấp nhất trong lịch sử.

Việc vay tiền này diễn ra khác nhau tại nhiều quốc gia trong khu vực.

Tại Trung Quốc, những doanh nghiệp khổng lồ thuộc sở hữu nhà nước, các công ty bất động sản và chính quyền địa phương nằm trên đống nợ. Tại Malaysia và Thái Lan, người tiêu dùng vay tiền để chi tiêu và chạy theo thói quen của tầng lớp trung lưu như mua ô tô và vật dụng gia đình.

Các nhà sản xuất hàng hóa tại châu Á thì đi vay tiền với niềm tin rằng nhu cầu tăng cao và giá cao sẽ tạo ra lợi nhuận khổng lồ để đáp ứng các khoản đầu tư. Tại Nhật Bản, chính phủ cũng suy nghĩ theo hướng này, đẩy nợ hiện tại lên 400% so với sản lượng đầu ra hàng năm của nền kinh tế, mức cao nhất thế giới.

Trong khi đó, nợ của toàn khu vực châu Á tăng lên 205%/GDP vào năm 2014, so với mức 144% năm 2007 và 139% năm 1996 – thời điểm ngay trước khủng hoảng tài chính châu Á. Tại Trung Quốc, tổng nợ tăng 28,2 nghìn tỷ USD giữa năm 2014, chiếm 282% GDP, tăng lên 7,4 nghìn tỷ USD trong năm 2007. Tỷ lệ tương tự là 269% tại Mỹ.

Tại một số quốc gia nghèo hơn như Ấn Độ và Indonesia, nợ vẫn tương đối thấp so với kích thước nền kinh tế. Tuy nhiên, túi nợ của những công ty xây dựng cơ sở hạ tầng tại Ấn Độ đang trở thành gánh nặng của nền kinh tế. Những khu vực khác bao gồm Hàn Quốc và Thái Lan đang đối mặt với 2 khó khăn bao gồm tỷ lệ nợ cao và dân số già hóa. Điều này có nghĩa là các nền kinh tế đang tăng trưởng chậm như này không còn khả năng góp sức vào sự tăng trưởng của thế giới như trong quá khứ nữa.

Dù nợ đang ngày càng gia tăng, nhưng một cuộc khủng hoảng tài chính xuất hiện tại châu Á là điều khó xảy ra.

Hầu hết các khoản vay đều được thực hiện ở trong nước thay vì bằng ngoại tệ vì vậy sự sụt giá tiền tệ không thể đẩy nền kinh tế đến nguy cơ vỡ nợ. Bản thân cuộc khủng hoảng tài chính tại châu Á những năm 1990 cũng là do có quá nhiều nợ bằng ngoại tệ.

Trong khi đó, những nền kinh tế có mức nợ khiêm tốn tại châu Á cho phép họ bảo lãnh cho người vay và kích thích nền kinh tế phát triển. Ngoài ra, các khoản vay chủ yếu là qua ngân hàng hoặc trái phiếu.

Tuy nhiên, có một vài xu hướng đáng lo ngại. Tại Trung Quốc, một nửa số nợ gắn với bất động sản và 1/3 số đó tới từ hệ thống ngân hàng "ngầm" của nước này. 

Rủi ro lớn và gần nhất là Mỹ tăng lãi suất có thể kéo một nguồn vốn lớn ra khỏi khu vực, gây tổn hại cho giá cổ phiếu và trái phiếu, tăng chi phí vay và gây ra biến động bất thường trong thị trường ngoại hối. 

Hàn Quốc là một vấn đề vĩ mô lớn của châu Á. Các tập đoàn hàng đầu tại đây đã phải đi vay rất nhiều tiền bởi họ gặp khó khăn trong khủng hoảng tài chính nhưng kể từ sau đó, các hộ gia đình vẫn tiếp tục đi vay thêm nhiều hơn.

Kim và vợ mới sinh em bé và hiện các khoản thế chấp của họ đã chiếm 1/3 thu nhập sau thuế hàng năm là 36 triệu won (tương đương 32.500 USD). Kim cũng không nhận được khoản tiền thưởng cuối năm như dự tính và phải huỷ chuyến nghỉ dưỡng của gia đình tại nước ngoài.

Với tỷ lệ nợ/GDP là 286% theo nghiên cứu của McKinsey, Hàn Quốc trong số 20 quốc gia nặng nợ nhất thế giới và tỷ lệ nợ/GDP cao hơn 81% so với Mỹ.

Mặc dù nợ đang tăng cao nhưng kinh tế Hàn Quốc vẫn hy vọng phát triển 3% trong năm nay, một trong những tỷ lệ phát triển nhanh nhất tại những quốc gia phát triển và ngân hàng trung ương nước này vẫn sẽ cắt giảm lãi suất.

Còn tại Việt Nam, theo dữ liệu từ The Economist thì riêng tỷ lệ nợ công/GDP trong năm 2014 là 47,2%, tăng 11,2% so với năm 2013.

Tuy nhiên theo báo cáo kinh tế vĩ mô 2013 của Ủy Ban Kinh tế Quốc hội, chỉ số nợ công của Việt Nam có thể lên đến 95% GDP nếu tính thêm cả phần nợ bảo lãnh của doanh nghiệp nhà nước. Hiện trần nợ công quốc gia của Việt Nam được Quốc hội phê duyệt là 65% GDP, trong đó hạn mức nợ nước ngoài là 50% GDP.

Tuy vậy, vấn đề nợ công của Việt Nam không chỉ nằm ở những con số mà là cơ cấu nợ và năng lực trả nợ. (Cũng cần phải hiểu thêm rằng, tổng nợ của nền kinh tế được tính dựa trên cả phần nợ của chính phủ, các hộ gia đình và các công ty, tập đoàn. Thống kê kể trên về nợ của Việt Nam chỉ là riêng phần nợ công và chưa tính đến 2 khu vực còn lại).

>> Indonesia: Nền kinh tế nghìn tỷ đô trong tương lai của châu Á

Vân Đàm

Đàm Vân

Cùng chuyên mục
XEM