4 lợi ích kinh tế của Việt Nam khi đại gia ngoại 'đổ bộ'

16/02/2016 11:18 AM |

Đi tắt đón đầu nhiều Hiệp định thương mại tự do, các công ty nước ngoài đang chuyển nhà máy sang Việt Nam với mục tiêu dùng nơi đây làm bàn đạp vào các thị trường lớn trong khối TPP. Điều này, có lợi hay bất lợi cho Việt Nam?

Mối quan tâm, lo lắng nhất của giới kinh tế hiện nay là động lực tăng trưởng của Việt Nam đang phụ thuộc quá nhiều vào khu vực FDI. Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực này trong tổng kim ngạch xuất khẩu có xu hướng ngày càng tăng trong các năm gần đây.

Cụ thể: Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài là 34 tỷ USD, chiếm là 47,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; năm 2011 tăng lên 47,9 tỷ USD; năm 2012 là 64 tỷ USD; năm 2013 là 81 tỷ USD; năm 2014 đạt 94 tỷ USD.

Đến năm 2015 xuất khẩu của khu vực này đạt 110,59 tỷ USD, tăng 17,7% so với năm 2014 và chiếm tỷ trọng 68,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

Sự tăng trưởng này còn được dự báo ở mức vượt trội hơn nữa khi mà gần đây, nhiều doanh nghiệp FDI chuyển nhà máy sang Việt Nam nhằm dùng Việt Nam để làm bàn đạp vào các thị trường lớn trong khối TPP.

Một số chuyên gia lo ngại việc Việt Nam đóng vai trò xuất khẩu “hộ” sẽ khiến phần lợi nhuận từ một số ngành hàng xuất khẩu chủ lực còn lại ít.

Về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cho hay, hiện tượng các nhà đầu tư nước ngoài tranh thủ nguồn nhân công giá rẻ của Việt Nam để làm bàn đạp vào các thị trường xuất khẩu lớn trên thế giới không phải là mới.

Thứ trưởng Hải khẳng định, cần nhìn nhận đánh và giá đúng một số điểm lợi từ việc gia tăng đầu tư vào Việt Nam:

Đầu tiên là thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Đây là cơ hội để phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ như: dệt may, da giày, cơ khí, ô tô… Tiến tới giảm dần phụ thuộc vào nhập khẩu, hạ giá thành sản phẩm nâng cao giá trị gia tăng cho các sản phẩm trong nước và xuất khẩu, đồng thời giảm gánh nặng cho nhập khẩu.

Thứ hai, cơ hội mở rộng đầu tư, tiếp cận công nghệ hiện đại. Trong quá trình hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn đầu tư quốc tế để mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất và trong chừng mực nào đó tiếp cận công nghệ hiện đại, kỹ năng quản lý, sản xuất từ các nước tiên tiến hiện đại.

Nền kinh tế Việt Nam mà đặc biệt là các lĩnh vực được đánh giá là chịu nhiều tác động từ các FTA như dệt may, da giày sẽ trở thành nơi thu hút các nhà đầu tư nhằm nắm bắt cơ hội do hội nhập mang lại.

Thứ ba, thanh lọc, phát triển được các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh. Dưới sức ép cạnh tranh gay gắt trong bối cảnh toàn cầu hoá và tham gia các hiệp định FTA, chỉ có các doanh nghiệp mạnh, có đủ năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài và trong nước mới có thể trụ được, còn lại sẽ bị bật khỏi thị trường nếu năng lực cạnh tranh yếu.

Đây cũng là cơ hội buộc các doanh nghiệp phải tự đánh giá lại, tìm hướng đi giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển.

Cuối cùng, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, để việc đầu tư nước ngoài vào Việt Nam mang lại hiệu quả cao, đóng góp lớn vào phát triển kinh tế đất nước, chúng ta cần phải có những chính sách phù hợp.

Do đó, tùy từng giai đoạn phát triển của đất nước, chúng ta cần có các chính sách khuyến khích đầu tư theo hướng có chọn lọc và phù hợp vào các lĩnh vực ưu tiên như công nghiệp hỗ trợ, công nghệ cao, cơ sở hạ tầng.

Tô Mạn

Cùng chuyên mục
XEM