1 lô hàng ‘cõng’ 43 triệu đồng tiền phí, DN Việt cạnh tranh kiểu gì?

18/06/2015 15:58 PM |

“Lại là vấn đề phí, phí và phí! Một lô hàng xuất khẩu mà phí thu tới 43 triệu đồng thì doanh nghiệp còn đâu lợi nhuận?”, TS. Nguyễn Đình Cung – Viện trưởng CIEM đặt dấu hỏi.

Nội dung nổi bật:

- Nghị quyết 19/NQ-CP mới đã đi qua được 3 tháng. Tuy nhiên, việc thực hiện nghị quyết này còn nhiều vấn đề phải bàn. “Ở Việt Nam, khoảng cách dài nhất là giữa cái mồm và cái tay” – Trưởng ban Pháp chế VCCI

- Họ cứ quy định 500 tấn là 1 lô kiểm dịch. Một tàu 40.000 tấn dăm gỗ xuất khẩu được chia ra làm 80 lô. Với mức thu phí kiểm dịch 540.000 đồng/lô, phí kiểm dịch cho tàu hàng đó là: 80 x 540.000 = 43.200.000 đồng.

- “Có hàng loạt sản phẩm xuất khẩu phải chịu mức phí hơn 40 triệu đồng/lô hàng. Mức phí này quá lớn, mà nhiều khi lợi nhuận của một lô hàng cũng chỉ được vậy. Thu phí thế này sẽ giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của doanh nghiệp”.


Mất 10.000 USD/tấm thép để lấy mẫu và 43 triệu đồng phí kiểm định cho 1 lô hàng xuất khẩu

Trong khi các nước xây dựng hàng rào kỹ thuật đối với các mặt hàng nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu, thì Việt Nam đang làm ngược lại, TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết tại hội thảo Tình hình thực hiện Nghị quyết số 19 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia sáng 18/6.

Nghị quyết 19/NQ-CP mới (ban hành năm 2015) đã đi qua được 3 tháng. Tuy nhiên, việc thực hiện nghị quyết này còn nhiều vấn đề phải bàn. “Ở Việt Nam, khoảng cách dài nhất là giữa cái mồm và cái tay” – ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) hài hước.

Phản ánh tại hội thảo, ông Phạm Thanh Bình – chuyên gia Dự án Quản trị Nhà nước nhằm Tăng trưởng Toàn diện của USAID Việt Nam (USAID GIG), chuyên gia lâu năm về lĩnh vực hải quan – cho biết, các công ty xuất khẩu dăm gỗ ở miền Trung có văn bản phản ánh: Mức thu phí kiểm dịch hiện nay không thu theo mẫu kiểm dịch mà thu theo lô.

Họ cứ quy định 500 tấn là 1 lô kiểm dịch. Một tàu 40.000 tấn dăm gỗ xuất khẩu được chia ra làm 80 lô. Với mức thu phí kiểm dịch 540.000 đồng/lô, phí kiểm dịch cho 1 tàu hàng là: 80 x 540.000 = 43.200.000 đồng.

“Tôi đang đề nghị doanh nghiệp cung cấp văn bản quy định mức thu này. Nhưng họ bảo chỉ được người ta cung cấp cho đúng 1 trang biểu phí, còn trang đầu để căn cứ vào gốc văn bản nào thì người ta cho biết vẫn chưa tìm ra, hoặc ngại”, ông Bình nói.

“Nói đến kiểm dịch, lâu nay chúng tôi vẫn áy náy, băn khoăn khi nói đến cách thu phí kiểm dịch. Người thì thu theo mẫu, người thu theo trị giá, trọng lượng... để tính vào giá kiểm dịch nói chung. Tôi cho đây là một vấn đề không minh bạch”.

“Lại là vấn đề phí, phí và phí! Một lô hàng xuất khẩu mà phí thu tới 43 triệu đồng thì doanh nghiệp còn đâu lợi nhuận?”, TS. Nguyễn Đình Cung than.

“Có hàng loạt sản phẩm xuất khẩu phải chịu mức phí hơn 40 triệu đồng/lô hàng. Mức phí này quá lớn, mà nhiều khi lợi nhuận của một lô hàng cũng chỉ được vậy. Thu phí thế này sẽ giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của doanh nghiệp”.

Chưa kể, các doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường không yêu cầu phải kiểm dịch khi xuất khẩu (ví dụ thị trường Nhật Bản), nhưng cơ quan kiểm dịch thực vật trong nước vẫn yêu cầu phải thực hiện kiểm dịch thực vật tại Việt Nam theo quy định của Thông tư 30/2014/TT-BNNPTNT ngày 5/9/2014.

Còn đối với mặt hàng thép, tỷ lệ lấy mẫu kiểm định lại quá cao, không theo sản lượng xuất khẩu mà theo lô sản xuất cũng đang gây khó khăn cho doanh nghiệp.

“Khi lấy mẫu để kiểm định, cơ quan kiểm định cắt một phần sản phẩm (thép tấm, thép hình,…) làm cho sản phẩm đó trở thành phế phẩm và không còn giá trị sử dụng, gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Ví dụ như đối với thép tấm carbon, doanh nghiệp mất khoảng 5.000-10.000 USD/tấm thép”, ThS. Nguyễn Minh Thảo – Phó trưởng ban Môi trường kinh doanh và Năng lực cạnh tranh, CIEM - cho biết.

“Thời gian chờ đợi kiểm định hơn 2 tuần, làm chậm trễ thông quan và phát sinh chi phí lưu bãi, lưu kho tại cảng”.

Tạo điều kiện cho doanh nghiệp thế nào mà kê khai thông quan từ 1 tờ thành 100 tờ?

Ảnh minh họa. Nguồn: Tuổi trẻ.

Ảnh minh họa. Nguồn: Tuổi trẻ.

Nhìn lại việc thực hiện Nghị quyết 19, TS. Cung cho rằng qua 3 tháng, trong triển khai hoạt động như trên, ông cho rằng các Bộ có triển khai thực hiện nhưng việc thực hiện còn chậm và không bám sát tinh thần của nghị quyết này.

“Trong các Bộ, có 2 Bộ tập trung nhiều là Bộ Công thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Điều khoản bất hợp lý ở các thông tư, tôi nghĩ Bộ trưởng xắn tay vào thì 1 tháng là xong, không cần phải đợi 2 năm”, TS. Cung nhận định.

Trong khi các Bộ đang triển khai chậm như thế, lại có một dòng chảy các quy định khác đang đè lên.

Ông Bình lấy ví dụ, hiện theo quy tắc của thủ tục hải quan, tờ khai hải quan không được quá 50 dòng hàng. Cho nên, với các doanh nghiệp nhập khẩu nhiều đến hàng mấy trăm mặt hàng một lúc như linh kiện sản xuất ô tô, linh kiện điện tử, dệt may, trong khi thường tờ khai trước đây chỉ cần 1 tờ cho lô hàng, giờ với hệ thống thông quan tự động (VNACCS) cần hàng chục tờ khai.

Theo khảo sát mới đây tại doanh nghiệp Toyota, thông thường 1 lô hàng cần hàng trăm tờ khai.

“Tờ khai hải quan trên điện tử thì không có vấn đề lắm. Vấn đề ở chỗ kèm theo 100 tờ khai là 100 giấy nộp tiền. Hiện 100 giấy nộp tiền này, bản thân ngân hàng chưa giải quyết được vấn đề 1 lô hàng là 1 giấy nộp tiền, mà vẫn phải cần 100 giấy nộp tiền riêng rẽ”, ông Bình nói.

“Hàng trăm giấy nộp tiền ấy, Toyota cho biết: Theo quy định của Hải quan, sau khi nộp thuế thì với kết nối giữa ngân hàng và kho bạc, tiền thuế hải quan đã được ngân hàng chuyển thông điệp nộp tiền tới cơ quan hải quan. Nhưng về phía doanh nghiệp, do không biết nên cứ cẩn thận đến ngân hàng lấy 100 tờ ấy về”.

Nguyên Bảo

Cùng chuyên mục
XEM