Thị trường xe máy Việt Nam đã đến lúc bão hoà?

17/10/2021 13:32 PM | Kinh doanh

ABeam cho rằng thị trường xe máy tại Việt Nam đang bắt đầu bước sang giai đoạn bão hòa khi số lượng ô tô có xu hướng tăng nhanh.

ABeam Consulting (ABeam Việt Nam) – công ty tư vấn chiến lược hàng đầu Nhật Bản cho rằng thị trường xe máy trong nước đang ở giai đoạn bão hòa, mức tăng trưởng sẽ ổn định và không có đột biến trong thập kỷ tới.

THỊ TRƯỜNG XE MÁY VIỆT NAM SẼ KHÔNG CÓ SỰ TĂNG TRƯỞNG ĐÁNG KỂ TRONG THẬP KỶ TỚI

Năm 2020, do ảnh hưởng từ đại dịch COVID-19, doanh số bán xe máy giảm từ 3,25 triệu chiếc còn 2,84 triệu chiếc, giảm 12,6% so với năm 2019. Thế nhưng, Việt Nam lại là quốc gia có doanh số bán hàng duy trì ở mức ổn định trong suốt thập kỷ qua với khoảng 3 triệu chiếc được bán ra hằng năm.

Trong đó, doanh số thấp nhất là 2,7 triệu chiếc vào năm 2014 và cao nhất là 3,39 triệu chiếc vào năm 2018. Vào năm 2010, tỷ lệ giữa số lượng xe máy và ô tô đăng ký tại Việt Nam tăng cao tới mức 55,9 xe máy/ô tô nhưng liên tục giảm xuống tỷ lệ 26,7 vào năm 2020 (ASEANSTATS).

Trong khi đó, GDP bình quân đầu người tăng liên tục và đạt 2.785 USD vào năm 2020, tăng đáng kể so với 1.317 USD năm 2010 (CAGR là 7,8%) (World Bank).

Không chỉ điều kiện tài chính cải thiện giúp người Việt Nam có thể mua những mặt hàng đắt tiền hơn như ô tô thay vì xe máy, mà cơ sở hạ tầng ở Việt Nam cũng đang được cải thiện với tốc độ nhanh chóng.

Theo những số liệu mới nhất, trong vòng 10 năm qua, tỷ lệ đường rải mặt toàn quốc tăng từ 64,4% năm 2010 lên 84%, trong đó tỉ lệ này ở khu vực nông thôn tăng từ 37,9% vào năm 2010 lên 68,69%. Theo số liệu Tổng cục Đường bộ Việt Nam, trong 10 năm (2011- 2020), Việt Nam đã xây dựng khoảng 1.074km đường bộ cao tốc, đưa tổng chiều dài cao tốc đang khai thác lên 1.163km.

Thị trường xe máy Việt Nam được thống trị bởi 5 nhà sản xuất lớn Honda, Yamaha, Suzuki, SYM và Piaggio, trong đó Honda và Yamaha chiếm gần 90% tổng số lượng xe máy tiêu thụ tại Việt Nam trong nửa đầu năm 2021.

Năm 2017, chính phủ đã công bố quyết định chuyển đổi xe hai bánh có động cơ đốt trong (ICE) sang 100% xe điện (EV) vào năm 2030 và tập trung chuyển đổi tại hai thành phố lớn nhất Việt Nam là Hà Nội và TP.HCM.

Từ đó, giảm ùn tắc giao thông, giảm số vụ tai nạn giao thông, cũng như giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường, góp phần cải thiện chất lượng sống và xây dựng các thành phố phát triển bền vững tại Việt Nam.

Do đó, những năm gần đây các nhà sản xuất xe máy đang trì hoãn việc ra mắt các tính năng và mẫu xe mới cho dòng xe có động cơ ICE, thay vào sẽ chuyển hướng sang việc bán các mẫu xe điện. Ngược lại, các nhà sản xuất xe máy điện có thể được chứng kiến làn sóng mới bởi sự gia nhập của VinFast, một công ty khổng lồ trong nước chuyên sản xuất xe máy điện.

Vào tháng 11/2018, dòng xe máy điện mang tên VinFast Klara ra mắt đầu tiên trên thị trường. Đến 2021, hãng đã sản xuất thêm 3 dòng xe máy điện mới với tổng đơn hàng nhận được là 50.000 xe, trong đó đã sản xuất được 45.118 xe.

Bên cạnh đó, nhà sản xuất xe máy điện lớn nhất thế giới Yadea đến từ Trung Quốc cũng mới bắt đầu hoạt động tại Việt Nam vào năm 2019.

Hiện nay, xe máy vẫn được coi là phương tiện giao thông chính ở Việt Nam. Với tổng dân số 98 triệu người đã có hơn 65 triệu xe máy được đăng ký, có nghĩa là cứ 3 người thì có 2 người sở hữu một chiếc xe máy vào năm 2020. Mặt khác, giao thông công cộng tại Việt Nam vẫn chưa phát triển, còn ô tô vẫn được xem là khá đắt so với mức thu nhập trung bình.

Nhìn chung, ABeam cho rằng thị trường xe máy tại Việt Nam đang bắt đầu bước sang giai đoạn bão hòa khi số lượng ô tô có xu hướng tăng nhanh. Từ đó cho thấy, với các yếu tố đã đề cập trước đây thì thị trường xe máy sẽ phát triển bền vững hơn với những con số ổn định trong tương lai nhưng sẽ không có sự tăng trưởng đáng kể nào trong thập kỷ tới.

BƯỚC NGOẶT TỪ THỊ TRƯỜNG XE MÁY SANG ÔTÔ CÓ THỂ KHÁC NHAU GIỮA CÁC QUỐC GIA

ASEAN là khu vực có vai trò quan trọng với thị trường xe máy toàn cầu, đứng thứ 3 thế giới, sau Ấn Độ và Trung Quốc. Trong khu vực này, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam là ba quốc gia đứng đầu, tổng doanh số hơn 13,7 triệu chiếc. Đến 2019, tổng số xe máy đăng ký là 106 triệu chiếc tại Indonesia, 62 triệu chiếc tại Việt Nam và 21 triệu chiếc tại Thái Lan.

Từ 2010 đến 2019, Myanmar là thị trường tăng trưởng cao nhất với CAGR đạt 14%, từ 1,8 trieeuj lên 6,1 triệu chiếc. Yếu tố tác động chủ yếu đến thị trường xe là thu nhập quốc dân hoặc GDP.

Một nghiên cứu gần đây từ Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Kỹ thuật an toàn Đường bộ của Malaysia năm 2020 chỉ ra rằng, trong giai đoạn đầu của một nền kinh tế đang phát triển, do mức thu nhập còn thấp, doanh số bán xe máy lại ghi nhận thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ, song song với sự gia tăng của thu nhập cá nhân. Điểm mấu chốt là khi mức thu nhập trung bình của người dân đủ cao để mua một chiếc ôtô sẽ dẫn đến việc doanh số bán xe máy sẽ giảm.

Mối quan hệ giữa GDP bình quân đầu người và tỷ lệ sở hữu xe máy, ôtô chở khách được xem như là một hình chữ U đảo ngược.

Mặt khác, người dân ở các nước phát triển trong khu vực ASEAN như Thái Lan đang giảm tốc độ khi thay thế xe máy cũ và chuyển sang mua ôtô con bình dân, với những lý do chính như thu nhập tăng, các sáng kiến chính sách và mở rộng cơ sở hạ tầng. Điều này thể hiện rằng đất nước phụ thuộc nhiều hơn vào thị trường xe hơi, đồng thời nhẹ nhàng chuyển sang thị trường xe máy cao cấp hơn với động cơ lớn hơn (xe thể thao) và xe điện.

Theo Trung tâm Nghiên cứu Môi trường và Kỹ thuật an toàn Đường bộ của Malaysia năm 2020, tỷ lệ sở hữu xe máy sẽ tăng lên, với sự phát triển của nền kinh tế của quốc gia nhưng sẽ giảm khi mức thu nhập đạt đến ngưỡng cụ thể.

Bước ngoặt từ thị trường xe máy sang ôtô có thể khác nhau giữa các quốc gia, phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau, chẳng hạn như cơ sở hạ tầng đường bộ và mức độ bất bình đẳng. Ngoài ra, sau khi nền kinh tế phát triển và thu nhập đạt mức cao hơn nữa, mối quan hệ giữa GDP bình quân đầu người và xe máy trở nên tích cực trở lại, khi người tiêu dùng yêu cầu xe máy động cơ lớn hơn (xe phân khối lớn trên 250 cc) hoặc xe máy điện.

Ví dụ điển hình cho vấn đề này là tại Trung Quốc, nơi số lượng xe máy trên 100 hộ gia đình tại thành thị đã tăng đáng kể từ 6,3 chiếc năm 1995 lên khoảng 25 chiếc năm 2007, sau đó giảm xuống còn khoảng 19 chiếc năm 2019 trong khi GDP của nước này đã tăng đáng kể so với hai thập kỷ qua. Tương tự, tổng lượng bán ra giảm từ 26,6 triệu chiếc trong năm 2010 xuống còn 15,2 triệu chiếc vào năm 2019 (giảm 6,02% hàng năm).

Mặc dù phần lớn thị trường xe máy tại Trung Quốc tập trung phân phối xe cỡ nhỏ, những phân khúc thị trường xe máy động cơ lớn vẫn tăng trưởng cùng lúc. Doanh số bán xe máy dưới 250 cc tại Trung Quốc chiếm 98,7% tổng doanh số năm 2019 (tương đương khoảng 13 triệu chiếc) trong khi xe máy từ 250 cc trở lên ghi nhận 177.000 chiếc bán ra trong năm 2019, tăng mạnh so với khoảng 10.000 chiếc ở 2010.

Trung Quốc đa phần xuất khẩu xe máy sản xuất ra nước ngoài, số lượng sản xuất xe máy có động cơ lớn hơn 150 cc từ năm 2015 đến 2018 cũng cho thấy mức tăng từ 787.000 chiếc lên 1,05 triệu chiếc (CAGR là 10,12% trong thời gian khoảng thời gian).

Nghiên cứu của ABeam cho thấy vị trí của mỗi quốc gia được nghiên cứu trong khu vực ASEAN về mối quan hệ giữa hai thị trường được đề cập tới để dự đoán các xu hướng tiềm năng trong tương lai.

Các quốc gia trong khối ASEAN với mức thu nhập ngày càng tăng, cùng với các sáng kiến chính sách và cơ sở hạ tầng mở rộng, người dân ở các nước đang phát triển tại khu vực ASEAN như Thái Lan đã giảm tốc độ trong việc thay thế xe máy cũ và dần chuyển sang việc mua xe du lịch nhỏ. Từ đó, thị trường xe máy cuối cùng dần bị thu hẹp để mở rộng thị trường xe hơi trong khu vực.

Ngọc Diệp

Cùng chuyên mục
XEM