Thuốc cổ truyền Trung Quốc đã đoạt giải Nobel Y Học như thế nào?

09/10/2015 13:45 PM | Công nghệ

Thuốc cổ truyền Trung Quốc đã đoạt giải Nobel Y Học như thế nào?

Giải Nobel Y Học năm nay đã được trao cho 3 nhà khoa học đến từ Ireland, Nhật Bản và Trung Quốc nhờ 2 công trình nghiên cứu chống bệnh sống rét và nhiễm trùng từ giun đũa ký sinh.

Nhưng đáng chú ý, công trình chống bệnh sốt rét được vinh danh chỉ riêng một nhà khoa học Trung Quốc có tên Youyou Tu (sinh năm 1930) và bà giành trọn 1/2 giải thưởng trong khi 2 nhà khoa học còn lại mỗi người chỉ được 1/4 giải thưởng (vì chia sẻ chung một công trình).

Bên cạnh đó, công trình của bà dựa trên một liệu pháp y học cổ truyền của Trung Quốc vốn có nhiều khác biệt so với liệu pháp y học hiện đại của phương Tây. Vậy vì đâu mà một trong những giải thưởng khoa học danh giá nhất hành tinh lại tôn vinh một công trình mang nhiều màu sắc phương Đông đến vậy?

Trước hết, công trình của Tu đã giúp làm ra Artemisinin, một loại thuốc có phản ứng mãnh liệt với căn bệnh sốt rét được gây ra bởi trùng Plasmodium falciparum (một loại protozoa ký sinh). P. falciparum lây nhiễm qua đường máu nhờ muỗi Anopheles.

Theo báo cáo mới nhất của tổ chức Y tế Thế giới (WHO) trong 2014, trong 2013 có tới 198 triệu ca sốt rét trên toàn cầu, ước tính có khoảng 584.000 ca đã tử vong. Phần lớn các ca sốt rét xuất hiện tại vùng hạ Sahara (châu Phi) với khoảng 75% trường hợp bị gây ra bởi P. falciparum. Và hầu như mọi ca tử vong đều có nguồn gốc từ P. falciparum.

Trùng P. falciparum (dẹt) bên cạnh các tế bào hồng cầu

Do đó, việc làm ra Artemisinin của bà được hội đồng Giải Nobel đánh giá rất cao vì ý nghĩa của nó đối với nhân loại. Và đằng sau giải thưởng danh giá này là một câu chuyện rất dài...

Bắt đầu câu chuyện là từ hồi những năm kháng chiến chống Mỹ của quân và dân Việt Nam, sốt rét rừng là một căn bệnh gây ám ảnh với mọi chiến binh, bất kể thuộc phe nào. Và điều đáng sợ hơn là trùng P. falciparum lúc ấy đã phát triển thêm cả khả năng kháng thuốc trước chloroquine, thứ thuốc được dùng phổ biến lúc bấy giờ để chống sốt rét. Do vậy, không có gì đảm bảo mạng sống của bệnh nhân sẽ được bảo toàn một khi đã bị nhiễm bệnh.

Vốn là đồng minh của Việt Nam lúc bấy giờ, Trung Quốc đã quyết định hỗ trợ nghiên cứu nhằm tìm ra một loại thuốc mới có khả năng trị sốt rét. Bởi vì nếu có quá nhiều người lính Việt Nam bị căn bệnh trên, cục diện cuộc chiến sẽ trở nên rất tệ.

Một dự án quân đội được triển khai, hơn 500 nhà khoa học Trung Quốc được điều động. Một nhóm trong số họ tìm kiếm khoảng 40.000 loại hoá chất mà con người từng biết để xem phản ứng của chúng với sốt rét. Số còn lại đi về các miền quê xa xôi nhằm tìm câu trả lời trong các tài liệu y học cổ.

Bản đồ phân bổ các chủng sốt rét trên toàn cầu (tính đến 2010)

Xám - Không có sốt rét, Cam - Chưa có sốt rét kháng chloroquine hoặc trùng P. falciparum

Đỏ tươi - Đã có sốt rét kháng chloroquine, Đỏ sậm - Sốt rét kháng nhiều loại thuốc hoặc kháng mạnh chloroquine

Nhóm tìm kiếm theo phương pháp "của Tây" (hoá chất) đã không thành công. Trong khi nhóm "truyền thống" đã đạt được kết quả, tất nhiên cũng không dễ dàng gì. Trong tạp chí Nature phát hành hồi 2011, bà đã miêu tả những khó khăn trong quá trình tìm kiếm của mình:

"Chúng tôi điều tra hơn 2.000 bài pha chế thảo dược Trung Quốc và nhận ra 640 bài có tiềm năng đối phó được với sốt rét. Có hơn 380 bài có thành phần trích ra từ 200 loại thảo dược được đánh giá thử nghiệm trên chuột có tác dụng. Tuy vậy, toàn bộ quá trình không hề suôn sẻ, và không có kết quả đáng nổi bật nào xuất hiện nhanh chóng".

Chỉ mãi tới cuối những năm 60 của thế kỷ trước, những thành quả đầu tiên của nhóm "truyền thống" mới bắt đầu lộ diện. Một bản văn tự cổ tiết lộ cách sử dụng qinghao - tên Trung Quốc của một loài ngải tây ngọt. Tinh chất của loại cây này chính là thành phần làm nên Artemisinin. Nhưng phải mất tới 5 năm, 1972, Tu mới tìm ra cách chiết xuất thành công để làm ra thuốc. Xong mọi việc chưa dừng ở đó.

Tu hồi còn trẻ (những năm 1950) khi đang học ở Học viện Y Dược Trung Quốc

Tuy dựa trên phương pháp "truyền thống", nhưng để thuyết phục mọi người chấp nhận rộng rãi công trình của mình, bà phải thực nghiệm đầy đủ trên người và có được chứng nhận của y học hiện đại. Tiếc thay, cuộc cách mạng văn hoá tại Trung Quốc lúc bấy giờ đã khiến cho công trình của Tu phải ngừng lại. Và cuộc chiến Việt Nam cũng kết thúc chỉ sau đó ít năm, công sức hàng chục năm của bà đi vào ngõ cụt.

Song đến phút chót, các thành viên trong nhóm của Tu tình nguyện thử thuốc và họ đã giúp Artemisinin được y học phương Tây công nhận. Đến những năm 80 của thế kỷ trước, Tu đã công bố rộng rãi thành tựu nghiên cứu của mình. Tuy vậy, những sự cố chính trị lẫn các vấn đề sở tại của Trung Quốc đã khiến Artemisinin không có điều kiện phát huy năng lực.

Mãi đến gần 3 thập kỷ sau, tức những năm 2010, WHO mới xác thực khả năng trị sốt rét của Artemisinin và công trình của Tu mới được toàn thế giới biết tới. Giờ đây thứ thuốc có nguồn gốc cổ truyền này trở thành tiêu chuẩn để trị sốt rét trên toàn cầu. Về mặt hoá học, Artemisinin đặc biệt ở chỗ nó là một loại sesquiterpene lactone có một cầu peroxide bất thường. Cầu peroxide trên được cho chính là nguồn gốc gây ra phản ứng với trùng P. falciparum, giúp điều trị căn bệnh. Hiện có khá ít hợp chất nguồn gốc thiên nhiên có kèm theo cầu peroxide mà con người biết đến.

Công thức hoá học của Artemisinin với cầu peroxide (O - O) ở giữa vòng lactone

Ngải hoa vàng, thứ dược liệu làm ra Artemisinin

Ngoài khả năng trị sốt rét, Artemisinin còn có tiềm năng điều trị cả ung thư. Hiện một số nghiên cứu lâm sàng cho thấy thứ hoá chất có nguồn gốc thảo dược này gây ra các phản ứng chống ung thư. Cũng chính cầu peroxide bất thường trên được cho là yếu tố đã tác động tới các vùng tập trung cao các nguyên tử sắt (thành phần phổ biến trong các tế bào ung thư), phản ứng hoá học sau đó đã khiến các phân tử chứa sắt trở nên kém bền và bị phá vỡ.

Theo kết quả của nhiều nghiên cứu, Artemisinin hoặc các dẫn xuất từ nó làm giảm khả năng tăng trưởng của các mô ung thư. Tuy vậy, đây chỉ mới là kết quả thực hiện trên các mô thí nghiệm chứ chưa phải trên người. Sẽ cần thêm nhiều thời gian nữa để kết luận liệu Artemisinin có thực sự trị được ung thư hay không.

Nhưng dù có hiệu quả với ung thư hay không, câu chuyện Artemisinin cho thấy một quan điểm khác về nghiên cứu khoa học. Có những kiến thức của người xưa cho đến ngày nay vẫn có ích cho nhân loại. Song vì lý do này hoặc lý do khác mà rất nhiều cái đã bị lãng quên. Hoặc do tư tưởng "xem thường" những cái cũ kỹ mà chỉ quan tâm tới những cái mới hơn. Mặc dù về bản chất, "cũ" hay "mới" đều có thể được xem xét một cách nghiêm túc dưới lăng kính khoa học hiện đại.

Y học cổ truyền vẫn còn nhiều bí mật cần được khoa học hiện đại khám phá

Có một vấn đề chung nhất của những bài thuốc cổ truyền là do hạn chế của thời xưa, các thành phần hoá học bên trong những bài thuốc đó không được phân tích và nghiên cứu rõ ràng, nên gây khó khăn trong việc hiểu và định lượng chúng. Nhưng nếu kết hợp tinh thần nghiên cứu của khoa học hiện đại, mọi thứ sẽ trở nên sáng tỏ. Chúng ta có thể biết thành phần nào của bài thuốc đóng vai trò chính trong việc trị bệnh, cũng như sử dụng liều lượng bao nhiêu cho phù hợp và các hệ quả phụ là gì.

Thêm một bài học khác mà con người có thể rút ra từ trường hợp của Tu là có những thành tựu nghiên cứu vốn rất có ý nghĩa. Song vì ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... mà phải rất rất lâu sau (hoặc thậm chí là không bao giờ) chúng mới phát huy được năng lực của mình. Tu đã trích xuất thành công Artemisinin từ 1972 nhưng mãi 3 thập kỷ sau, nhân loại mới thấy được lợi ích từ đấy.

Theo Huyền Thế

Cùng chuyên mục
XEM