Việt Nam đặt mục tiêu dịch chuyển lên nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu

19/09/2018 19:00 PM | Xã hội

Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN 2018 ở Hà Nội tuần trước, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cho biết, Việt Nam đặt mục tiêu nâng cấp và dịch chuyển lên nấc thang cao hơn của chuỗi giá trị toàn cầu, đồng thời tăng cường sự liên kết giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Việt Nam đang trở thành một trong những công xưởng của thế giới, một điểm tựa cho các tập đoàn xuyên quốc gia cung ứng sản phẩm, dịch vụ cạnh tranh trên toàn cầu.

Độ mở kinh tế của Việt Nam hiện nay thông qua chỉ số giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP đã đạt khoảng 200%. Các yếu tố kinh tế vĩ mô của Việt Nam được duy trì ổn định trên nền tảng nền kinh tế mở và hội nhập. Việt Nam hiện có quan hệ thương mại với trên 200 nước và vùng lãnh thổ. Việt Nam có 20 mặt hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD, tiềm năng tăng trưởng giá trị của chuỗi cung ứng là rất lớn. Khả năng đa dạng hóa chuỗi cung ứng của Việt Nam được đánh giá là khá tốt trước các rủi ro thương mại quốc tế.

Thế nhưng, dịch chuyển lên nấc thang cao hơn của chuỗi giá trị toàn cầu, Việt Nam phải giải quyết nhiều vấn đề, như tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu chỉ là 21%, thấp hơn nhiều so với 46% ở các nước trong khu vực ASEAN.

Tỷ trọng giá trị gia tăng của Việt Nam trong chuỗi cung ứng của thế giới thấp, doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tham gia chuỗi giá trị toàn cầu ở các khâu đơn giản như lắp ráp, đóng góp sản phẩm, trong khi đây là những mắc xích hạ nguồn của chuỗi cung ứng, thường có giá trị gia tăng không cao và thiếu bền vững. Tỷ lệ giá trị sản phẩm được các doanh nghiệp FDI mua từ các nhà chế biến, chế tạo trong nước hiện chỉ đạt chưa tới 27% tổng giá trị đầu vào, phần còn lại là mua từ doanh nghiệp FDI khác hoặc nhập khẩu.

Theo quan sát của GS. Trần Văn Thọ - thành viên Tổ Tư vấn kinh tế Chính phủ, lao động dư thừa trong nông nghiệp hay kinh tế cá thể đang chiếm tỷ lệ rất cao. Hiện trên 40% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế cá thể, trong khi đó năng suất lao động trong 2 lĩnh vực này rất thấp.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động của Việt Nam thấp, nhưng GS. Trần Văn Thọ cho rằng, 2 nguyên nhân chính là lao động trong khu vực nông nghiệp, kinh tế cá thể còn lớn và khu vực kinh tế tư nhân vẫn ở vị trí thấp trong nền kinh tế. Ông dẫn chứng việc Việt Nam đầu tư cho nhập khẩu công nghệ mới - một giải pháp chính để tăng năng suất lao động, nhưng hầu hết vốn tập trung vào doanh nghiệp nhà nước, trong khi hoạt động của khu vực này không mang lại hiệu quả kinh tế cao và năng suất lao động thấp.

Trên thực tế, đầu tư công nghệ của khu vực kinh tế tư nhân hiệu quả hơn đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước. GS. Trần Văn Thọ nói: "Việc cần làm bây giờ là Chính phủ phải sớm khơi thông thị trường vốn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân tiếp cận vốn đầu tư công nghệ và thay đổi năng suất. Việc tự túc vốn đầu tư công nghệ sẽ buộc doanh nghiệp tư nhân phải nghiên cứu rất kỹ về thị trường, lựa chọn công nghệ phù hợp".

Từ nhiều năm trước, Chính phủ Nhật Bản đã có những ngân hàng dành riêng cho doanh nghiệp tư nhân vay vốn đầu tư công nghệ với lãi suất ưu tiên. Theo GS. Trần Văn Thọ, Việt Nam cũng có thể làm được điều này, khi lập ra các quỹ hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp tư nhân đầu tư công nghệ và phát minh, sáng chế. Biện pháp này giúp tăng nhanh số vốn chuyển vào chuỗi sản xuất, kinh doanh.

Chính phủ cần linh hoạt trong việc đưa ra những chính sách hỗ trợ hiệu quả, lựa chọn lĩnh vực, đối tượng ưu tiên, cũng như nghiên cứu, thẩm định các dự án vay vốn. Điều ấy đòi hỏi năng lực tốt hơn của các nhà hoạch định chính sách và đội ngũ cán bộ thực thi chính sách.

GS. Trần Văn Thọ tin rằng, cùng những nỗ lực của khối doanh nghiệp tư nhân, Việt Nam sẽ đưa chỉ số năng suất lao động lên mức cao hơn, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh, từng bước dịch chuyển lên nấc thang cao hơn của chuỗi giá trị toàn cầu.

Theo Nguyễn Hoàng

Cùng chuyên mục
XEM