Mỹ tính tỷ lệ thất nghiệp như thế nào?

11/01/2015 10:33 AM | Nghề nghiệp

Báo cáo việc làm hàng tháng là báo cáo quan trọng ảnh hưởng lớn đến chính sách tiền tệ của Fed cũng như diễn biến của thị trường chứng khoán Mỹ.

Ngày thứ 6 đầu tiên của mỗi tháng đều mở ra 1 chương mới trong quá trình theo dõi sức khỏe nền kinh tế của chính phủ Mỹ. Đó chính là ngày mà bản báo cáo mô tả thị trường lao động trong tháng trước đó được công bố. Giống như nhiều báo cáo khác, bản báo cáo này đưa ra một loạt con số mà từ đó dẫn đến nhiều phản ứng chính sách khác nhau. Thị trường cổ phiếu và trái phiếu cũng phản ứng mạnh mẽ với báo cáo này. Các thống đốc NHTW dựa vào nó để hoạch định chính sách. Thậm chí, báo cáo này còn có thể tạo nên các cuộc tranh luận chính trị gay gắt.

Nhiều tháng nay, có vẻ như các phần khác nhau của báo cáo việc làm hàng tháng đã tạo ra những quan điểm trái ngược nhau. Hiểu về cách mà mỗi con số được tạo ra giúp lý giải phần nào hiện tượng này.

Bối cảnh

Số người nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp ở Mỹ đã giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 1 thập kỷ. Thậm chí số người bị sa thải cũng thấp hơn mức đỉnh của thời kỳ nền kinh tế bùng nổ trong năm 2006. Với các công ty tư nhân tuyển tăng số nhân công một cách chậm rãi và chắc chắn trong suốt 4 năm vừa qua, số việc làm mới đã dần hồi phục từ sự suy giảm trong thời kỳ cuối năm 2013 và đầu 2014. Tỷ lệ người lao động chọn công việc bán thời gian thay vì toàn thời gian vì những lý do kinh tế cũng dần dần giảm xuống.

Tuy nhiên, đối lập với những con số tích cực này là một vài chỉ số gây hoang mang. Tỷ lệ người tham gia vào thị trường lao động hoặc tìm kiếm việc làm đang ở quanh mức thấp nhất kể từ năm 1978. Con số này đang bao trùm lên nhận định của Cục dự trữ liên bang (Fed) về tiến triển của thị trường lao động.

Mặc dù số người về hưu tăng lên là một nguyên nhân, Chủ tịch Fed Janet Yellen đã cho rằng các công nhân bị nản trí vì không tìm được việc có thể đã chọn cách rời khỏi lực lượng lao động và đây là điều đáng lo ngại. Thêm vào đó, lương tăng rất chậm.

Picture 2

Diễn biến của thị trường lao động Mỹ qua các chỉ số

Các chỉ số được xây dựng như thế nào?

Có hai chỉ số thu hút được nhiều sự chú ý nhất khi Bộ Lao động Mỹ công bố báo cáo hàng tháng: tỷ lệ thất nghiệp và số việc làm mới được tạo ra (hoặc số việc làm bị mất đi).

Tỷ lệ thất nghiệp được tính toán bằng cách khảo sát bộ phận dân số trên 16 tuổi, không bao gồm những người đang phục vụ trong quân đội, trong tù hoặc đang điều trị tại các bệnh viện tâm thần. Họ sẽ trả lời câu hỏi trong 4 tuần vừa qua bạn có việc làm không hoặc nếu không có thì có đang đi tìm việc hay không. Những người đã ngừng tìm kiếm việc làm – bất kể vì họ đã nghỉ hữu hay vì đã từ bỏ hi vọng sẽ tìm được một công việc – được coi là đang nằm ngoài lực lượng lao động.

Dữ liệu đến từ trung tâm khảo sát dân số (CPS) với khảo sát được thực hiện trên khoảng 60.000 hộ gia đình mỗi tháng. Ngoài tỷ lệ thất nghiệp, CPS còn là nguồn cung cấp các dữ liệu về số người làm việc toàn thời gian và bán thời gian cũng như thông tin về tuổi, giới tính và cấu trúc chủng tộc của lực lượng lao động.

Trong khi khảo sát các hộ gia đình đếm số lượng người đang làm việc,con số việc làm mới được tạo ra hoặc mất đi mỗi tháng lại đến từ chương trình thống kê lao động (CES). Cơ quan này thực hiện khảo sát trên 145.000 công ty tư nhân và cơ quan chính phủ, đồng thời sử dụng các mô hình để ước tính có bao nhiêu doanh nghiệp mới thành lập và phá sản mỗi tháng. CES sẽ đưa ra con số về số lượng lao động của mỗi ngành, họ được trả lương bao nhiêu và làm việc trong bao nhiêu giờ.

Các chi tiết trong bản khảo sát hộ gia đình giúp hiểu về sự thay đổi tính chất của lực lượng lao động (tuổi, giới tích, chủng tộc và trình độ), trong khi các chi tiết mà CES cung cấp phác họa bức tranh lao động của các ngành, thể hiện ngành nào đang mở rộng và ngành nào đang thu hẹp.

Tranh cãi

Nhiều chuyên gia cho rằng Bộ Lao động Mỹ đang đi sai hướng. Tổng số người đang làm việc chỉ thay đổi khoảng 0,15% mỗi tháng, trong khi số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu thường được điều chỉnh tăng hoặc giảm khoảng 50%.

Các thuật toán điều chỉnh theo mùa vụ cũng có thể mắc nhiều sai sót. Đồng thời giới phân tích cũng bất đồng về con số việc làm cần thiết để nền kinh tế đạt đến và duy trì trạng thái toàn dụng lao động. Các ước tính đều dựa trên những giả định về tăng trưởng dân số, tốc độ già hóa và nhập cư.

Quan trọng hơn, những con số của báo cáo việc làm đem đến những hệ quả trong đời sống thực bởi chúng ảnh hưởng đến quyết định nới lỏng hoặc thắt chặt chính sách tiền tệ của Fed.

>> Phi lý tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam chỉ 1,8%

Thu Hương

Cùng chuyên mục
XEM