Làm sao để giảm lãng phí tài nguyên, khai thác xuất khẩu lậu và tăng thu ngân sách?

17/08/2016 16:26 PM | Kinh tế vĩ mô

Việt Nam chỉ còn 56 năm khai thác dầu khí, 21 năm khai thác vàng...

Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI) vừa có công văn báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ về việc Việt Nam tham gia Sáng kiến minh bạch ngành công nghiệp khai khoáng - EITI.

EITI đang trở thành tiêu chuẩn toàn cầu về quản trị công nghiệp khai khoáng của nhiều quốc gia trên thế giới.

Tính đến thời điểm hiện tại, đã có 51 quốc gia thực thi EITI, với 305 báo cáo EITI cấp quốc gia được công bố với tổng giá trị dòng tiền lên đến 1.900 tỷ đô la Mỹ.

Trong số các quốc gia tham gia EITI có cả các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Anh, Na Uy, Đức và nhiều quốc gia đang phát triển khác ở Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Á. Nhiều quốc gia trong khu vực cũng đã tham gia EITI gồm Indonesia, Myanmar, Philippines, Đông Timor, Papua New Guinea.

Theo VCCI, mặc dù đã tiếp cận từ năm 2005, nhưng đến nay, hơn 10 năm Việt Nam vẫn chưa có kết luận rõ ràng về việc tham gia EITI.

Để cải cách ngành công nghiệp khai khoáng, Chính phủ Việt Nam cần nhanh chóng công bố thực thi EITI. Thực thi EITI giúp cung cấp nhiều thông tin trung thực, đầy đủ về hoạt động khoáng sản của các quốc gia, từ đó mang lại nhiều ích lợi như sau:

Thứ nhất, EITI cung cấp thông tin đầu vào hiệu quả cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về khoáng sản của Việt Nam. Điều này là đặc biệt quan trọng khi nhiều báo cáo của các tổ chức quốc tế cho thấy pháp luật về khoáng sản của Việt Nam vẫn còn nhiều khiếm khuyết đáng lo ngại.

Thứ hai, EITI giúp nhà nước kiểm soát tốt hơn hoạt động khai thác khoáng sản, từ đó giảm thất thoát, lãng phí tài nguyên, tăng thu cho ngân sách. Nigieria là một ví dụ điển hình. Theo đánh giá, Nigieria đã tránh thất thu được khoảng 1 tỷ đô la Mỹ từ ngành khai khoáng hàng năm nhờ thực hiện EITI.

Trong khi đó, chi phí để thực thi EITI không lớn, theo số liệu từ Ủy ban EITI Mông Cổ, chi phí hàng năm để vận hành EITI tại quốc gia này là 200.000 USD, tương đương khoảng 4,4 tỷ đồng. Văn phòng EITI tại Mông cổ chỉ có 7 nhân viên thường trực.

Thứ ba, EITI giúp các cơ quan nhà nước chủ động hơn trong việc thực thi pháp luật, đặc biệt là chống xuất khẩu lậu khoáng sản. Hiện nay, số liệu thống kê về kim ngạch xuất khẩu tử Việt Nam sang Trung Quốc có chênh lệch gần 5 tỷ đô la. Theo một số chuyên gia, xuất khẩu lậu khoáng sản chiếm phần không nhỏ trong con số chênh lệch đó.

Thứ tư, EITI tạo diễn đàn minh bạch, tin tưởng lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và người dân trong hoạt động khai thác khoáng sản, từ đó giảm xung đột xã hội, củng cố an ninh trật tự, tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

Thứ năm, EITI giúp các doanh nghiệp giảm rủi ro khi khai thác khoáng sản, giảm chi phí không chính thức, đồng thời tăng cường uy tín và vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế, giúp doanh nghiệp của chúng ta dễ dàng tiếp cận các thị trường của các nước phát triển, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Thứ sáu, EITI giúp tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo lập niềm tin của doanh nghiệp trong và ngoài nước, từ đó thu hút đầu tư một cách ổn định, lâu dài vào các dự án chế biến sâu khoáng sản, đáp ứng mục tiêu quản trị tài nguyên quốc gia.

Thứ bảy, EITI giúp tăng cường trách nhiệm xã hội và môi trường của doanh nghiệp nơi có mỏ khoáng sản, từ đó tạo thêm việc làm cho lao động trong nước, góp phần bảo vệ môi trường và thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo.

Lý giải nhiều ý kiến quan ngại khi tham gia EITI Việt Nam phải công bố các thông tin thuộc diện bí mật nhà nước, VCCI cho rằng điều này sẽ không xảy ra vì tiêu chuẩn EITI rất linh hoạt. EITI cho phép các quốc gia lựa chọn thực hiện từng lĩnh vực, theo từng loại khoáng sản, từng giai đoạn của quy trình khoáng sản… phù hợp với nhu cầu và khả năng của quốc gia đó.

Do đó, Việt Nam vẫn có quyền bảo lưu, không công bố những thông tin thuộc diện bí mật nhà nước. EITI cho phép các quốc gia lựa chọn quy mô doanh nghiệp phải thực hiện công bố thông tin.

Ngoài ra, EITI cho phép các quốc gia lựa chọn quy mô doanh nghiệp phải thực hiện công bố thông tin. Kinh nghiệm tham gia EITI của nhiều quốc gia đang phát triển cho thấy, trong những năm đầu, các quốc gia này chỉ yêu cầu một số lượng rất ít các doanh nghiệp lớn phải thực hiện theo mẫu báo cáo, sau đó mở rộng ra các doanh nghiệp cấp trung bình trong các năm tiếp theo.

Do đó, Việt Nam có thể lựa chọn thực thi EITI theo từng bước từng giai đoạn, phù hợp với năng lực của các doanh nghiệp.

"Với những lý do đó, VCCI kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định việc Việt Nam tham gia Sáng kiến minh bạch trong công nghiệp khai khoáng (EITI). VCCI tin rằng bằng việc đưa ra quyết định này, Thủ tướng Chính phủ sẽ đưa ra một thông điệp mạnh mẽ của Chính phủ về minh bạch, công khai, hiệu quả và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, trước hết trong lĩnh vực khai thác khoáng sản", công văn nêu rõ.

Việt Nam chỉ còn 56 năm khai thác dầu khí, 21 năm khai thác vàng

Cũng theo thông tin từ VCCI, nhiều năm gần đây, ngành khoáng sản Việt Nam đã tăng trưởng nhanh về quy mô. Năm 2012, Việt Nam đứng thứ bảy về khai thác dầu thô ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương, đóng góp 2,3% tổng sản lượng thiếc và 1,8% tổng sản lượng xi măng thế giới.

Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, Việt Nam không phải là quốc gia giàu khoáng sản. Nếu tính toán trữ lượng theo tiêu chuẩn thế giới, khoáng sản VN vừa ít về trữ lượng vừa thiếu về chủng loại.

Vì vậy, với quy mô khai thác như hiện nay, nhiều loại khoáng sản của Việt Nam sẽ cạn kiện trong tương lai gần.

Theo tính toán của Tổng hội địa chất, số năm khai khác còn lại của dầu khí là 56 năm, barit là 21 năm, thiếc là 19 năm, chì - kẽm là 17 năm và vàng là 21 năm.

Về cấp phép khai thác, tính đến tháng 5/2013, cả nước có 503 giấy phép khai thác khoáng sản so các cơ quan Trung ương cấp và 4.200 giấy phép do UBND các tình, thành cấp còn hiệu lực. Tuy nhiên, năm 2012, Bộ Tài Nguyên kiểm tra 957 giấy phép thì thấy có 50% được cấp không đúng.

Mặc dù được cấp phép khai thác nhiều nhưng theo số liệu thống kê của Bộ Tài Chính, số thu thuế tài nguyên ngoài dầu khí chỉ đạt 0,9% - 1,2% tổng thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2014.

Dư Hoài

Cùng chuyên mục
XEM