Vì sao kiểm toán Big 4 ngày càng trở nên ... vô dụng? (P2)

25/12/2014 10:00 AM | Kinh doanh

Mặc dù PCAOB mang lại những hiệu quả nhất định, nó cũng khiến người ta nhận ra một sự thật: Các kiểm toán viên không bao giờ có thể trở thành một đồng minh tuyệt vời với nhà đầu tư.

Có 4 nguyên nhân chính đang gây ra xung đột lợi ích trong ngành kiểm toán.

Đầu tiên là sự tách biệt của ban kiểm toán với nhà quản lý. Kể từ sau khi luật Sarbanes Oxley được cải cách vào năm 2002, các nhà kiểm toán tại Mỹ không được chọn bởi giám đốc điều hành hay giám đốc tài chính mà sẽ được lựa chọn bởi một tiểu ban thuộc ban giám đốc. Trên lý thuyết, điều này sẽ bảo đảm những người lựa chọn hoạt động vì lợi ích nhà đầu tư nhiều hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy tiểu ban này vẫn dễ dàng bị điều khiển bởi các nhà quản lý. Một nghiên cứu cho thấy nếu lãnh đạo tiểu ban từng hoạt động tại công ty kiểm toán nào, thì công ty kiểm toán đó sẽ dễ dàng được lựa chọn hơn. Chẳng hạn, người đứng đầu ủy ban kiểm toán tại Tesco từng làm việc tại PwC.

Vấn đề thứ hai là danh tiếng. Quan điểm chung là nếu kiểm toán không tốt, anh có thể mất khách hàng về tay người khác. Tuy nhiên, ngày nay với sự thống trị của 4 hãng kiểm toán lớn (Big 4), chiếm tới 98% thị phần các công ty trên sàn chứng khoán Mỹ, thị trường đã bị bóp méo. Cả 4 cái tên lớn nhất này đều từng dính vào những bản báo cáo kém chính xác, tuy nhiên danh tiếng của họ lại chẳng mấy bị ảnh hưởng.

 

Quyền lực của Big 4 bao trùm toàn bộ ngành kiểm toán, hình thành thế độc quyền. Cho phá sản một trong Big 4 cũng là ý tưởng tồi vì nó càng khiến tình trạng độc quyền gia tăng.

Vấn đề thứ 3 đó là các vấn đề về pháp lý. Các yêu cầu pháp lý đối với các công ty kiểm toán rất khiêm tốn Trong quá khứ, Athur Andersen, một thế lực ngang hàng với Big 4 ngày nay, đã phá sản sau vụ scandal Enron. Tuy nhiên, kể cả sau thảm họa Enron, trách nhiệm của các công ty kiểm toán không hề tăng lên. Năm 2005, Tòa án Tối cao Mỹ đã đưa ra luật yêu cầu các cổ đông phải đưa ra bằng chứng cho thấy sự liên hệ giữa hoạt động của các công ty kiểm toán và giá cổ phiếu giảm để tính toán thiệt hại.

Sự lỏng léo của luật pháp giúp các hãng kiểm toán né tránh được hầu hết các vụ kiện tụng. Tháng 4 vừa qua, EY đã được tuyên bố vô tội trong vụ phá sản của Lehman Brothers.

Một vấn đề nữa. Kiểm toán có thực sự độc lập với khách hàng, những người bỏ tiền ra thuê mình? Dưới đây là một đoạn trao đổi giữa một phát ngôn viên trong ngành kiểm toán với Quốc hội Mỹ vào năm 1933:

“Anh kiểm toán người điều khiển mình? Vậy ai sẽ kiểm toán anh?” – một thượng nghị sĩ nghi ngờ. “Lương tâm của chúng tôi”, người phát ngôn viên này trả lời.

Nhiều quy định đã ra đời để quản lý chặt chẽ hơn ngành kiểm toán từ sau vụ scandal Enron. Luật Sarbanes – Oxley và Ủy ban giám sát (PCAOB) ra đời để giám sát hoạt động kiểm toán. Tại Anh, người ta cũng đưa ra một mô hình tương tự vào năm 2004.

Tháng trước, Ủy ban giám sát (PCAOB) đã công bố 85 trong số 219 báo cáo kiểm toán mà ủy ban này kiểm tra từ năm 2013 cần xem xét lại. Tình trạng công bố lại tình hình tài chính cũng đã giảm đáng kể sau khi Ủy ban này đi vào hoạt động.

Cải tổ như thế nào?

Mặc dù PCAOB mang lại những hiệu quả nhất định, nó cũng khiến người ta nhận ra một sự thật: Các kiểm toán viên không bao giờ có thể trở thành một đồng minh tuyệt vời với nhà đầu tư. Chỉ có những cải cách thực sự trong ngành kiểm toán mới có thể làm được điều này.

Cách đơn giản nhất đó là mở rộng yêu cầu cho báo cáo kiểm toán. Thay vì một tờ giấy đơn đánh giá báo cáo của công ty đạt/chưa đạt, hiện tại ở Anh đã yêu cầu một bản báo cáo chi tiết hơn về hoạt động của kiểm toán viên và những lĩnh vực cần quan tâm.

Phá bỏ thế độc quyền của Big 4 cũng là một yếu tố đáng quan tâm. Hiện tại, Big 4 hoạt động trên những lĩnh vực đặc thù ở mỗi quốc gia, vì vậy, các công ty chỉ có 2 đến 3 ứng viên khi lựa chọn kiểm toán độc lập. Năm 2005, tòa án Mỹ quyết định không khởi tố KPMG vì sai phạm liên quan đến thuế, một lý do lớn đến từ việc họ lo ngại điều này có thể khiến KPMG phá sản, và như thế thì số lượng công ty kiểm toán có thể lựa chọn sẽ lại ít đi. Càng ít lựa chọn, vấn đề độc quyền thống lĩnh thị trường càng đáng lo ngại.

Tăng số lượng các đối thủ cạnh tranh với Big 4 có thể là ý kiến hay, nhưng không thực sự khả thi, bởi quy mô các công ty này hiện đã quá lớn. Ngay cả KPMG, nhỏ nhất trong Big 4, cũng to hơn 4 công ty đứng dưới nó cộng lại.

Một số ý kiến nữa được đưa ra nhưng lựa chọn đơn vị kiểm toán “hoàn toàn không liên quan” tới công ty, hay lụa chọn kiểm toán viên bằng một đội ngũ độc lập hơn cả ban giám đốc.

Một giải pháp hấp dẫn khác được đưa ra bởi giáo sư Joshua Ronen từ đại học New York. Ông đề nghị các công ty phải mua “bảo hiểm báo cáo tài chính” để bảo vệ cổ đông khi họ bị thiệt hại vì những sai phạm trong báo cáo, và các công ty bảo hiểm sẽ có nhiệm vụ thuê kiểm toán viên để tìm kiếm những sai sót trong báo cáo và đưa ra mức phí bảo hiểm. Mặc dù vậy, sẽ cần phải có những quy định mới để khuyển khích dịch vụ này.

Cuối cùng, tốt nhất đó là để thị trường phát triển tự do và loại bỏ những yêu cầu pháp lý bắt buộc về kiểm toán. Nếu khách hàng không bị buộc phải thuê kiểm toán, tự thân Big 4 sẽ phải đưa ra những chính sách mới để nhà đầu tư cảm thấy báo cáo kiểm toán họ cầm trên thay thực sự hữu ích. Tất nhiên, quyết định này cũng sẽ có mặt trái. Đó là những nhà đầu tư cả tin có thể bị lừa đảo và mua phải cổ phiếu “rác”.

>> Vì sao kiểm toán Big 4 ngày càng trở nên ... vô dụng? (P1)

Trang Lam

Quốc Dũng

Cùng chuyên mục
XEM